62
VTV
cảm xúc
mùa xuân
Bolero
&
tôi
T
ôi lớn lên cái thời mà ở miền
Nam đám con trai đứa nào cũng
biết đàn, hình như thế, và đám
con gái biết hát. Họ đàn và hát
bolero.
Thực tình, hồi đó, và rất lâu sau này,
tôi không thích bolero. Tôi vẫn nhớ cái
cảm giác đau cứng bàn tay trái khi giữ
cho những hợp âm đều đặn trên cái phím
đàn lớn hơn bàn tay tôi trong những đêm
ngồi đệm đàn cho đám thanh niên trong
làng nhậu hát không dứt những bản nhạc
bolero. Chuyển tới chuyển lui chỉ ba hợp
âm đó thôi mà lời ca thì bất tận, tôi phải
nghĩ ra những cách đánh điệu bolero
khác đi để mình không chán và buồn
ngủ; lời nhạc bolero đã không quyến
rũ tôi.
Tôi lớn lên cái thời mà đám có học
hành đôi chút đi ra khỏi làng nhìn đám ở
lại làng hát loại “nhạc sến” với cái nhìn
thương cảm. Đối với chúng tôi, nhạc
phải là thứ có thể đưa chúng tôi đến với
những ý tưởng trừu tượng, những mơ
màng, những điều càng không thể dễ
dàng diễn tả được càng tốt, không thể
hiểu được càng tốt. Nhạc không thể là
thứ quá chân chất, quá cụ thể đến mức
không còn chỗ trống nào cho những xúc
cảm bay bổng mông lung. Thứ nhạc mà
chúng tôi mơ đến là thứ nhạc người ta
ngồi ôm đàn hát trong những căn gác
nhìn xuống hàng me ngoài kia. Thứ nhạc
mà chúng tôi mơ đến là thứ nhạc người
ta hát để rong ruổi tìm kiếm điều gì đó
mà chính họ cũng không biết mình tìm
cái gì. Một cách tự nhiên, hay thời
thượng, chúng tôi tìm đến với Trịnh
Công Sơn, với Ngô Thụy Miên, với Từ
Công Phụng, với Phạm Duy, ngược về
trước nữa với Dương Thiệu Tước, với
Cung Tiến, với Đoàn Chuẩn - Từ Linh.
Không bao lâu sau, cái thế giới của
Trịnh Công Sơn và Ngô Thụy Miên cũng
nhanh chóng trở nên chật chội. Một nỗi
cô đơn mênh mông, một khoảng trống,
những cuộc tình lung linh óng ánh,
những buổi chiều dài không dứt, những
xúc cảm chua xót thân phận. Rồi sao
nữa? Lời bài hát của Trịnh Công Sơn
vẫn còn nguyên vẹn những quyến rũ siêu
hình, nhưng sự đơn điệu của nhạc đã làm
cho chúng trở nên một -thứ -hát -thơ. Từ
lúc nào đó, và cho đến khi ông qua đời,
tôi không hát Trịnh Công Sơn nữa.
Những ngày đó, mỗi lần trời mưa,
nước từ sông Sài Gòn ngập lên đến tận
Nhà thờ Fatima ngoài Bình Triệu. Nước
ngập lên tận chân giường của tôi ở nhà
dì Quy trong con hẻm gần nhà thờ.
Ngoài mùng, muỗi bay từng đàn. Những
đêm mưa như thế không ngủ được tôi
lần mò trên làn sóng FM của cái radio
nhỏ dượng Đình mua rẻ lại của ai đó
ngoài ga. Ở đó có một thứ nhạc rất khác:
Paul Mauriat, Richard Clayderman, và
những dàn hòa tấu loại nhạc không
có lời.
Lúc còn ở Trị An, lần nào đó tôi
xuống chợ Biên Hòa, vào tiệm nhạc mua
một cái băng cassette rồi trả tiền cho chủ
tiệm để thu vào cái cassette những bản
nhạc nước ngoài mà tôi nghe đâu đó ở
các quán cafe. Đó là thời mà bạn ngồi
cafe nào cũng nghe Modern Talking và
BoneyM, Michael Jackson và Stevie
Wonder, Lionel Richy và Madona. Hồi
đó, phía bên kia quán kem Bạch Đằng có
cái quán Cafe Laserdisc, nơi tôi đã làm
quen với BeeGee và những ban nhạc
disco của mười năm trước. Cái băng
cassette đó, với
Woman in Love, I’ve just
called to say I love you
, và đương nhiên
với
Careless Whisper
của George
Michael và nhiều bài hát khác nữa, đã đi
với tôi một đoạn đường rất dài.
Và cứ thế, từ Paul Mauriat đến 101
Strings đến Yanni, đến các dàn giao
hưởng của New York và London, của
Boston và Frankfurt; từ Barbara
Streisand đến Dean Martin và Frank
Sinatra, đến Nat King Cole, tôi cứ mải
miết đi không quay đầu lại.
Bạn gọi từ Sài Gòn, “Trịnh Công Sơn
mất rồi!”. Tôi chỉ hỏi, “vậy à?”. Tối
hôm đó, tôi và bạn bè làm một diễn đàn
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên