Xuân Đinh Dậu 2017
66
“Đòi” sự chính xác cho
Truyện Kiều
Ông Nguyễn Khắc Bảo xuất thân trong gia
đình làm nghề thuốc Đông y, thuộc làng Chọi, xứ
Kinh Bắc, bên dòng sông nhỏ Ngũ huyện Khê.
Ông vốn là giáo viên dạy toán nhưng về hưu non,
tiếp nối nghề thuốc của cha ông. Khi còn nhỏ, ông
đã được học chút ít chữ Hán từ ông nội. Trong tủ
sách thuốc của gia đình có sách viết bằng chữ
Nôm, vì thế, ông quyết định học chữ Nôm để đọc
được sách. Ông dùng cuốn
Truyện Kiều
bằng chữ
Nôm là tài liệu để học. Từ học để hành nghề
thuốc, ông cũng chú ý đến chữ nghĩa viết trong
Truyện Kiều
. Ông cũng tham khảo một số cuốn
Kiều khác nhưng thấy chúng có chỗ khác nhau.
Vậy đâu là bản Kiều Nôm chính xác. Ông bắt
đầu đi tìm các bản Kiều Nôm để chữa các “vết
thương” cho
Truyện Kiều
. Theo ông Bảo,
Truyện
Kiều
được viết trước khi Gia Long lên ngôi Vua,
chứ không phải dưới thời Gia Long như một số
người vẫn nói. Cuối đời, cụ Hoàng Xuân Hãn
khẳng định, Truyện Kiều được viết dưới triều Tây
Sơn, nhưng không chứng minh. Còn ông Bảo thì
khẳng định và chứng minh được là vào triều Tây
Sơn, Nguyễn Du viết
Truyện Kiều
.
Trải qua mấy trăm năm, kiệt tác văn học
Truyện
Kiều
được nhiều thế hệ truyền khẩu rồi ghi chép lại
nên không tránh khỏi “tam sao thất bản”. Ở nước
ta tồn tại ba dòng Truyện Kiều: một dòng lưu
truyền ở Huế, một dòng vào Nam và một tồn tại ở
các phường khắc ở Hà Nội. Do đó có những bản
Kiều cổ bị một số thầy Nho cậy mình nhớ giỏi nên
chép sai, hoặc chỉ nhớ mang máng nên biến tấu
cho hợp vần. Chính ông Nguyễn Khắc Bảo đã tìm
ra những điểm vênh nhau giữa các bản.
Không chịu để câu chữ của Nguyễn
Du mãi bị sửa chữa và người
dân cứ phải đọc những dị
bản này nên ông Bảo đã chỉ
ra những chỗ sai, chỉnh lại
và viết thành bài, gửi đến
một số cơ quan như: Viện
Nghiên cứu Hám Nôm,
Tạp chí Ngôn ngữ học…
Người ta thấy một ông lang
vườn dám “bạo gan” biên tập
cả
Truyện Kiều
với những lập
luận hết sức thuyết phục, chữ nào
ra chữ ấy nên rất nể phục. Ông
Bảo cho biết: “Cho đến bây giờ,
tôi có 62 bản Kiều Nôm. Nghĩa
là bằng vốn hiểu biết của mình, khi đọc một chữ
nào đó, thấy không thích hợp với những bản còn
lại, tôi sẽ xem xét để thay thế cho đúng. Tôi không
lấy bất cứ chữ nào trong đầu tôi ra cả.”
Kiệt tác
Truyện Kiều
có nhiều chữ phạm húy,
phải kiêng kị dưới thời vua Gia Long và nhiều câu
thơ phạm tội “yêu thư, yêu ngôn” như: “Dọc ngang
nào biết trên đầu có ai”, “Gồm hai văn võ rạch đôi
sơn hà” vi phạm điều 225 luật Vua Gia Long. Sau
khi Nguyễn Du mất, triều đình Huế
mang toàn bộ di cảo của ông
về cung cấm nhưng tác
phẩm này vẫn được
nhiều người truyền
miệng cho nhau. Đến
khi phong trào đọc
Truyện Kiều
trở nên sôi
nổi thì nhiều văn nhân
tài tử mới đi chép lại.
Bản
Truyện Kiều
chữ
Quốc ngữ được truyền
bá thông dụng nhất do học
giả Đào Duy Anh chủ biên
năm 1979 nhưng lại chịu
ảnh hưởng bởi bản của
Kiều Oánh Mậu năm 1902
nên nhiều câu thơ đã bị chỉnh sửa thành ngôn ngữ
hiện đại.
Vậy Nguyễn Khắc Bảo đã “đòi” lại sự chính
xác cho Truyện Kiều, cụ thể như thế nào? Xin đưa
ra những dẫn chứng: Bản Đào Duy Anh chép năm
1979 có câu: “Chút lòng trinh bạch từ sau xin
chừa”, nguyên bản phải là “Xót lòng trinh bạch từ
lâu đến giờ”. Câu thơ chính xác cho ta thấy Thúy
Kiều chung thủy tột bậc với người yêu, khi sắp phải
dấn thân vào chốn nhơ bẩn, nàng vẫn nhớ đến
chàng Kim Trọng và chua xót cho việc mình đã
“hoài công giữ nắng, gìn mưa” lòng trinh bạch từ
lâu đến giờ, để đến nỗi sa vào cảnh “hồng ngâm
cho chuột vọc, mình ngọc cho ngâu vầy”. Tâm
trạng như ở câu hoàn nguyên mới phù hợp với
mạch tư duy trước đó của Thúy Kiều.
Hay câu “Rõ ràng trong ngọc trắng
ngà”, nếu đúng phải là “Rõ màu trong
ngọc trắng ngà”. Bởi tả cảnh Thúy
Kiều tắm mà dùng “rõ ràng” thì
chưa tế nhị. “Rõ màu” nghĩa là
nhác thấy dáng vẻ Thúy Kiều
ẩn hiện qua bức “trướng hồng
tẩm hoa” thì mới là bức phác
họa hư ảo của nhà nho
phương Đông. Câu “Càng cay
nghiệt lắm càng oan trái nhiều”,
đúng phải là “Càng cay ngạt lắm
càng oan trái nhiều”. “Cay nghiệt”
là ngôn ngữ hiện đại, chỉ xuất hiện
từ bản của Kiều Oánh Mậu. Còn
trong “Đại Nam Quốc âm tự vị”
của Huỳnh Tịnh Của năm 1895:
“cay ngạt” thường nói về sự gay gắt, cái cay cái
ngạt là cốt cái dao, cái kéo. Lời có cay, có ngạt thì
gay gắt quá. Cay ngạt còn có nghĩa là sâu hiểm,
gay gắt.
Câu “Bồng Lai cách mấy nắng mưa”, theo ông
Bảo đã bị làm mới, chính xác phải là “Sân Lai cách
mấy nắng mưa”. Ông giải thích: Có lẽ do ảnh
hưởng của chữ thứ hai là “Lai” và danh ngữ “Bồng
Lai” quá quen thuộc nên người chép để thợ khắc
ván in viết luôn là “Bồng Lai”. Song cũng có
nhiều bản Nôm khác viết là “Sân Lai”. Do
vậy nên khôi phục câu thơ Kiều, theo
như điển tích về Lão Lai Tử đã 70 tuổi
còn giả trẻ con vui đùa ở sân để cho
cha mẹ được vui lòng. Câu “Quản
chi lên thác xuống ghềnh/ Cũng
toan sống thác với tình cho xong”
cũng được Nguyễn Khắc Bảo hoàn
nguyên, gốc là: “Quản chi trên các
dưới duềnh”. Theo ông, đây là hai
câu liên quan đến điển tích của hai
nhà thơ đời Sở, Hán là Dương Hùng đâm
đầu từ trên lầu gác xuống mà chết; Khuất
Nguyên nhảy xuống sông Mịch La tự
vẫn… Cứ như vậy, bằng cách làm việc
nghiêm túc, khoa học, ông Bảo đã hoàn nguyên
nhiều câu chữ, trả lại sự chính xác cho
Truyện Kiều
.
Năm 2008, Nhà xuất bản Giáo dục đã in cuốn
Truyện Kiều
do ông Nguyễn Khắc Bảo khảo đính
và chú giải, hướng tới phục nguyên cho bản gốc.
Đây được coi là cuốn
Truyện Kiều
chính xác nhất
cho đến thời điểm hiện tại.
Một lòng nhiều nỗi đam mê
Ngoài việc bốc thuốc, trong quá trình nghiên
cứu văn hóa, ông Bảo “bén duyên” với nhiều niềm
đam mê khác là sưu tầm tiền cổ và tượng cổ. Ngôi
nhà chật chội của ông từ đó càng chật hơn khi các
món đồ sưu tầm nhiều lên. Đến nay, ông Bảo đã
có trong tay một tạ tiền xu và hơn 2.000 pho
tượng mô tả cảnh sinh hoạt vợ chồng, sinh hoạt đời
sống của cư dân đồng bằng sông Hồng. Ông Bảo
đi nhiều, đến đâu ông cũng giúp không ít người
đọc chữ gia phả, tìm lại gốc gác, cội nguồn của
mình nên họ rất quý trọng. Ngày càng nhiều người
biết tiếng thơm của ông, họ tìm đến bốc thuốc, bán
cho ông những bức tượng, tiền cổ đào được, thậm
chí có người đổi tượng lấy thuốc. Trong 2.000 pho
tượng các loại, phần lớn là các pho tượng người
Việt cổ cao chừng 20 đến 25cm, với đủ các trạng
thái, tâm trạng biểu cảm, hỉ, nộ, ái, ố lộ rõ trên
khuôn mặt. Nhưng tất cả đều là sản phẩm của
dòng tượng đất nung dân gian với những đường
nét thô ráp, mộc mạc, hoang dã, nhằm miêu tả,
mô phỏng, tái tạo hiện thực, có tính hồn nhiên, bản
năng, trong sáng.
Không ai có thể ngờ một thầy giáo dạy toán,
một ông lang nghiên cứu nghiệp dư có thể “biên
tập” lại
Truyện Kiều
và trả lại giá trị cho kiệt tác văn
học này. Ngoài ra, những đam mê sưu tầm,
nghiên cứu các tác phẩm khác cũng thể hiện ông là
người giàu tâm huyết với văn hóa dân tộc, nệ cổ.
Một nhà văn đã viết: “Kể từ cái ngày cụ Nguyễn
Tiên Điền lo lắng “bất tri tam bách dư niên hậu”
tính đến giờ, có lẽ, ông Bảo là một trong những
người nặng lòng với từng câu chữ của đời Kiều
nhất, “khốc Tố Như” nhiều nhất!”.
Là nhà nghiên cứuvănhóadângian, nghiên cứutruyệnKiều, ôngNguyễn
Khắc Bảo ở thành phố Bắc Ninh luôn dấn thân cho những điều mình đam
mê. Trong suốt những năm tháng tất bật với công việc, ông đã sửa 918
chữ trong tổng số 701 câu với tâm niệm: “Chữ nào của Nguyễn Du xin trả
lại Nguyễn Du” và sưu tầm cả một kho tượng đất cổ với ước mong bảo
tồn văn hóa.
Ông Bảo và bộ sưu tập đất nung
Vì yêu nên chịu nhọc thân
Nguyễn Văn Học
Truyện Kiều cổ