35
không tên, Đại tướng
không nói câu nào,
như chúng tôi, ông
khóc. Năm 1995, Tỉnh
có dự án xây dựng lại
nghĩa trang liệt sĩ. Nền
nghĩa trang được nâng
lên gần hai mét. Năm
1994, trước ngày Đại
tướng lên dự Lễ kỉ
niệm 40 năm chiến
thắng Điện Biên Phủ,
các cán bộ tỉnh có trình bày ý kiến muốn
cải lại mộ các chiến sĩ cho gần với mặt
bằng. Vị tướng già ứa nước mắt: “Thôi,
đừng đánh thức anh em dậy một lần
nữa làm gì! Để cho anh em mình được
yên nghỉ!” Giờ đây, nghĩa trang đã xây
dựng lại, mộ các chiến sĩ nằm yên chỗ
cũ. Hai hàng cây long não không còn,
nhưng những gốc cây năm ấy vẫn bất
chợt trổ ra những mầm non xanh biếc.
Ở nơi đất thiêng này, cây cũng giống
như người, không chết! Trái tim Điện
Biên Phủ vẫn bồi hồi dưới cỏ, trong
lòng đất.
Năm ấy, nhân dịp trùng tu tôn tạo
các di tích lịch sử chiến trường Điện
Biên Phủ, chuẩn bị kỉ niệm chiến thắng,
cựu chiến binh Hoàng Ngọc Thế từng
tham gia đánh đồi A1, hơn 70 tuổi, tóc
bạc, mắt mờ, mặc bộ quân phục đã cũ
sờn tham gia cùng mọi người sửa lại
giao thông hào, bất ngờ tìm được hơn
mười bộ hài cốt chiến sĩ ta vẫn còn
nguyên vẹn ở tư thế ngồi chỉ cách mặt
đất hơn 30cm. Có hài cốt chiến sĩ áo
quần chưa bị hủy, ngực dắt bút máy
Pilốt, lưng đeo cái bát sắt hoen gỉ, xung
quanh còn 28 quả lựu đạn. Người chiến
sĩ già vừa khóc vừa kể: “Tóc nó còn
nguyên, tay chân còn đủ cả. Xương nó
trắng đẹp như ngà...”.
Một hình ảnh tư liệu quen thuộc
trong bộ phim
Chiến thắng Điện Biên
Phủ
từng được cả thế giới biết đến là
hình ảnh tàn quân Pháp, Lê dương, Âu
Phi từ “Địa ngục Điện Biên” lầm lũi kéo
ra hàng từng đoàn dài vô tận. Tù binh
Pháp kinh hoàng kể lại: “Điện Biên Phủ
thực sự là một địa ngục đối với chúng
tôi. Những trận mưa làm rũa nát các
công sự. Chúng tôi sống trên bùn nước.
Các nhà thương ngầm
dưới đất chỉ đủ cho bốn
chục giường nay phải
chứa hàng ngàn thương
binh, ngột ngạt chồng
chất lên nhau...”. Đại tá
Nguyễn Hữu Đông từng
được giao nhiệm vụ tiếp
nhận tù binh ở Điện Biên
Phủ kể lại: “Tôi đứng
trên gò đất cao dưới
chân đồi Him Lam tiếp
nhận tàn quân Pháp.
Mặt trời đã lặn sau dãy
núi phía Tây mà đoàn tù binh vẫn ùn ùn
kéo ra tưởng không bao giờ hết, trong
lòng không khỏi lo âu. Một trận chiến
đấu mới bắt đầu, nuôi hơn một vạn tù
binh, chữa chạy và chăm sóc thương
binh, bệnh binh, quản lí đám tàn quân
này. Các đơn vị hậu cần đã gắng hết
sức trong hoàn cảnh thiếu thốn khó
khăn, lo cho mỗi tù binh một nắm cơm
to và thịt trâu kho mặn. Những tù binh
bị thương hoặc đau ốm được bộ đội
bảo vệ chăm sóc. Gần 1.000 thương
binh nặng cận kề cái chết đã được cứu
sống”. Chuyến trao tù binh cuối cùng
vào ngày 3/9/1954, thay mặt toàn thể
các tù binh Pháp có mặt, viên
quan năm Marcel Lapage đọc lời
cảm tạ: “Tôi đã tận mắt nhìn thấy
những người phụ nữ Việt Nam tải
thương cáng thương binh của
chúng tôi trên đường mòn qua
rừng sâu vực thẳm. Cùng với sự
chăm sóc của các chiến sĩ quân
đội nhân dân Việt Nam, những
người đã cho chúng tôi thuốc men
và cơm ăn, cứu sống chúng tôi
bằng cả trái tim nhân hậu, trái tim của
những người lính Điện Biên Phủ, để
dạy cho chúng tôi biết rằng hai dân tộc
của chúng ta được sinh ra để hòa thuận
với nhau”.
Đặt một bình rượu Pamông lên mộ
Mùa Sống Lử, người anh em kết nghĩa
của tôi, nhớ lại đêm nào bên bếp lửa
ông tâm tình: “Mấy tháng trước, con gái
Đèo Văn Long ở Pháp về đây xin xây lại
dinh thự trên nền đất cũ. Tỉnh hỏi ý kiến
các cụ lão thành, nhưng tao cũng chưa
biết trả lời thế nào. Trái tim bảo tao phải
khép lại quá khứ, cái đầu lại nhắc tao
đừng quên tội ác của chúng. Trước tao
không hiểu vì sao thế giới này thiếu gì
di tích chiến trường lịch sử, mà người
khắp nơi lại đến thăm Điên Biên Phủ
đông thế. Giờ tao đã hiểu: người ta đến
đây không phải để chiêm ngưỡng vinh
quang mà đến với lòng khao khát hòa
bình, đến với tình thương và lòng nhân
ái, đến với Trái tim Điện Biên Phủ - Trái
tim Việt Nam, để tìm ra sức mạnh thắng
được cái ác, cứu vớt con người. Vì vậy
mà Trái tim Điện Biên Phủ không bao
giờ chết!”.
NSND ĐÀO TRỌNG KHÁNH
Nửa thế kỉ trôi qua, đối với những người lính
Pháp, địa ngục Điện Biên Phủ nay đã trở
thành thiên đường của hạnh phúc và hòa
bình. Hoa hồng vẫn nở đỏ trên những cánh
đồng quanh hầm De Catries. Tôi nhớ tới các
lão du kích chống Pháp người dân tộcMông,
giờ đây hầu hết đã qua đời, trở về với
“Thung lũng những linh hồn bất tử”, nơi
những Trái tim Điện Biên Phủ vẫn sống mãi.
Cờ Quyết thắng của Quân đội
nhân dân Việt Nam tung bay trên
nóc hầm De Castries tại cứ điểm
Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954