Xuân Canh Tý 2020
54
CÒN ÍT NGƯỜI BIẾT TỚI
Lâu nay, du khách, học sinh đến với làng Đông Hồ
thường chỉ được giới thiệu về giấy điệp và những mẫu
tranh dân gian Đông Hồ mà ít, hoặc không mấy ai giới
thiệu về tranh trổ giấy. Điều này khiến mảng tranh trổ
giấy ngày càng bị khuất lấp. Nếu tranh đồ thế do nghệ
nhân Đông Hồ sản xuất phục vụ cho nhu cầu tín
ngưỡng, tâm linh, thậm chí làm voi và ngựa với ý nghĩa
là đồ thế những voi và ngựa thật cho quan Hành
Khiển… thì tranh trổ giấy lại thể hiện sự tinh xảo, vô
cùng khéo léo của người Đông Hồ.
GS.TSTrịnh Sinh - người có thời gian khá dài
nghiên cứu làng tranh Đông Hồ - rất khó khăn khi muốn
tìm ra niên đại khởi đầu của tranh trổ giấy ở nước ta. Kí
ức của các nghệ nhân Đông Hồ cũng chỉ cho biết trước
đây vài thế hệ, tức là khoảng thời Pháp thuộc, đã thấy
một số nghệ nhân trong làng có trổ giấy thành hàng lưu
niệm cỡ nhỏ; cũng đôi khi họ làm được tranh nhị bình
(2 tấm dọc) hay tứ bình (4 tấm dọc) khá to. Mặt khác,
nếu tranh dân gian Đông Hồ in trọn vẹn hình ảnh lên tờ
giấy điệp nên có đôi phần khá cứng cáp, “ra tấm ra
món” thì tranh trổ giấy thường trổ thủng, mỏng mảnh,
phải dán lên nền giấy trắng hoặc nếu không thì phải dán
lên cửa kính chẳng hạn để mà thưởng thức khi xem
ngược sáng.
CHỨA ĐỰNG SỰ MỘC MẠC,
ĐẬM CHẤT THÔN DÃ
Nhà sưu tập Nguyễn Thị Thu Hòa cho rằng, có thể
bắt gặp tranh trổ giấy ở nhiều quốc gia lân cận, tuy
nhiên tranh trổ giấy dân gian Đông Hồ có vẻ giản dị,
mộc mạc hơn, đậm chất thôn dã. Vào khoảng những
năm 1955 - 1980, khi một số nghệ nhân Đông Hồ được
tuyển vào làm cán bộ trong các cơ quan nghệ thuật như
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (cụ Nguyễn Đăng Khiêm),
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (cụ Nguyễn Đăng
Sần) hay Trường Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp và
Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc (cụ Nguyễn Đăng Chế)
thì với ảnh hưởng qua lại tất yếu giữa các họa sĩ hiện
đại và các nghệ nhân đã khiến cho một số cụ mạnh dạn
dùng kĩ thuật trổ giấy để sáng tác tranh có thể treo ở
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc và các triển lãm chính
thức khác. Đó cũng là thời hoàng kim của tranh trổ giấy
Việt Nam: một số tranh của cụ Nguyễn Đăng Khiêm
từng được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mua sưu tập
như những tác phẩm nghệ thuật đích thực.
Qua nghiên cứu tìm hiểu, có thể thấy đề tài của
tranh trổ giấy khá đa dạng. Nếu là bưu thiếp thì đề tài
luôn đơn giản: hoa lá, cỏ cây, muông thú, côn trùng…
Nhiều khi đó không hẳn là tranh mà chỉ như một hình
tượng cô đọng và giản lược để điển hình hóa qua nét
trổ. Hiện nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế ở làng Đông Hồ
vẫn bán các tập Tranh trổ giấy Đông Hồ mà chủ yếu là
bộ 12 con giáp. Ở Hà Nội, cũng là bưu thiếp trổ giấy
nhưng cha con nghệ nhân Nguyễn Đăng Khiêm –
Nguyễn Đăng Giáp làm cả hình tượng 4 cô tố nữ giản
thể (bỏ bớt chi tiết), trông sang trọng hơn. Sang đến
tranh trổ giấy dân gian hiện đại thì đề tài đã đậm chất
thời sự: chân dung Bác Hồ, sản xuất tập thể, phát triển
đàn gia cầm, vừa sản xuất vừa chiến đấu, cổ vũ thanh
niên lên đường tòng quân… Hình tượng trong tranh trổ
giấy dân gian hiện đại còn xuất hiện các nhân vật hiện
đại như bộ đội hay vừa là nông dân vừa là dân quân
hoặc xã viên hợp tác xã…
Về khuôn khổ tranh trổ giấy, nếu ở dạng bưu thiếp
thì tranh trổ giấy dân gian bao giờ cũng cỡ nhỏ: thời
trước đặt trên nền 10 x 12cm, nay nâng lên nền giấy
trắng 12,5 x 18cm (đã gập đôi để trang kia dành chỗ
cho người mua có thể viết lưu niệm đôi dòng và kí tên,
gửi cho gia đình, bạn bè hay đối tác...). Nghệ nhân
thường xếp 3 - 4 - 5 lớp giấy màu rồi trổ. Trổ xong bóc
tách lớp rồi dán bằng hồ nếp lên nền giấy trắng cho nổi
bật hình trổ. Dao trổ được mài thật sắc để trổ nét khi
khắc gỗ. Trổ giấy trang kim - loại hình trổ giấy dân gian
phức tạp nhất. Giờ đây, các loại giấy tráng vàng, bạc
hay ánh đồng đã được sản xuất công nghiệp nên rất
sẵn và đẹp. Tranh trổ giấy trang kim thường được trổ
thủng, vứt bỏ những mảng trống không cần thiết, giữ lại
phần cốt cần biểu hiện. Thường thì có 3 - 5 lớp, lớp giấy
trang kim ánh vàng hay ánh bạc bao giờ cũng ở dưới
cùng, coi như làm đế. Nghệ nhân dùng kĩ thuật đột lỗ
kiểu châm kim theo các nét viền hình thể để làm cữ cho
tranh. Sau đó họ trổ mấy mảng giấy màu sao cho diện
tích nhỏ hơn một chút, lớp giấy màu trên cùng nhỏ nhất.
Thuật ngữ làng nghề gọi là “trổ lé”, theo giải thích của
họa sĩ - nghệ nhân Nguyễn Đăng Giáp thì có nghĩa là
cách trổ các lớp mảng màu nhỏ dần, dán hồ nếp chồng
lên nhau, tạo ra độ chuyển màu rất thú vị, cho phép
màu dưới lóe ra một cách sinh động.
Nền mĩ thuật Việt Nam có một kho báu là tranh dân
gian Đông Hồ. Việc khai thác di sản này cho các thế hệ
làm mĩ thuật một hướng đi bền vững và đậm đà bản sắc
dân tộc. Vì thế, chúng ta cần chung tay để bảo tồn và
đưa tranh trổ giấy Đông Hồ ngày một đến gần với đời
sống đương đại.
DÒNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ (XÃ SONG
HỒ, THUẬN THÀNH, BẮC NINH) TỪ LÂU ĐÃ ĐƯỢC
BIẾT ĐẾN VỚI NHỮNG BỨC TRANH “GÀ LỢN NÉT
TƯƠI TRONG”. NHƯNG ÍT NGƯỜI BIẾT, CÒN MỘT
“NHÁNH” KHÁC, ĐÓ LÀ TRANH TRỔ GIẤY ĐÔNG
HỒ (HAY CÒN GỌI LÀ TRANH TRỔ LÉ). TUY NHIÊN,
TRẢI QUA THỜI GIAN, ĐẾN NAY MẢNG TRANH
TRỔ GIẤY CÒN RẤT ÍT NGHỆ NHÂN THEO ĐUỔI.
Độc đáo tranh trổ
GIẤY ĐÔNG HỒ
Bài và ảnh: HOÀNG THU PHỐ
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Giáp là một trong
không nhiều nghệ nhân của làng tranh Đông Hồ
còn biết làm tranh trổ giấy