Xuân Canh Tý 2020
110
M
ỗi lúc trời gió lạnh, nhìn thấy làn khói lam
bay lên từ trong gian bếp nhỏ nhà ai đó,
tôi hay nghĩ đến gian bếp nhỏ nhà mình
hồi còn bé.
Đấy là một gian nhà nhỏ lợp tranh vương vấn khói
thơm, núp dưới tán cây trong một con ngõ nhỏ. Hồi ấy
nhà ai ở nông thôn cũng dùng rơm để đun nấu nên gian
bếp nào cũng bồ hóng bám đen và đượm khói cay
nồng. Cái gian bếp nhỏ bé nền đất nện chứa đầy rơm
ấy luôn trữ sẵn trong góc một đống củi gộc để dành.
Củi gộc là những mẩu thân, cành, hay gốc, rễ cây…
không dùng vào việc gì được nữa, và chỉ có bếp lửa to
mới có thể đốt được. Thứ củi này thường sẽ có than rất
đượm nên hay được để dành đun bánh. Thuở nghèo,
củi gộc cũng phải tiết kiệm nên chỉ những dịp giỗ Tết
mới dám đun, quanh năm nhặt nhạnh dành dụm để
dùng cho ngày Tết, đặc biệt là củi để luộc bánh chưng.
Củi nấu bánh thường phải chuẩn bị trước. Những
nhà có vườn trại rộng rãi trồng tre thì sau mùa thu hoạch
vào tháng Tám âm lịch, những lũy tre chặt vãn chỉ còn
trơ gốc, người ta sẽ đánh bớt gốc cũ sau đó đắp thêm
bùn ao và trồng vào đó những gốc tre mới to khỏe hơn.
Đánh gộc tre là công việc nhọc nhằn lắm, phải là
những người đàn ông khỏe mạnh mới có thể đào lên
những gốc tre sần sùi tua tủa rễ cứng. Họ phải dùng
tới xà beng, rìu, thuổng… cho công việc đấy mà tiền
bán củi gộc tre cũng chả đáng là bao. Gộc tre đào lên
dành đun nồi bánh nhà mình đã, còn thừa mới gánh ra
chợ bán.
Tôi còn nhớ, cứ mỗi độ tháng Chạp sắp sang là mẹ
tôi đi chợ đã ngắm sẵn để mua những gánh củi gộc như
thế. Những gánh củi cồng kềnh nhưng nặng trịch vì gốc
tre vốn cong queo lại cứng như sắt nguội. Chúng có
thật nhiều hình thù thú vị được chúng tôi tưởng tượng
ra, nào là có cái giống y như cái sừng trâu cong vút, có
cái lại giống như cái bàn chải giặt chiếu vì có đám rễ
cứng tua tủa, có cái lại giống như thể con rồng đang
uốn lượn…
Thế nên, lúc những gánh củi ấy được mang về phơi
ngoài sân nắng thì chỉ có bọn trẻ con chúng tôi là thích
thú vì có thêm nhiều trò chơi bên đám gộc tre sần sùi
ấy. Đêm nằm ngủ cũng mơ thấy Tết đã đến thật rồi, đứa
nào cũng đếm từng ngày mong sao chóng đến buổi
sớm tinh mơ được trở dậy canh nồi bánh chưng bên
bếp lửa bập bùng.
Củi gộc tre dùng đun bánh thật tuyệt vì khi phơi khô sẽ
cháy rất nỏ và đượm, lại ít khói, mà có khói thì cũng không
khét nên hầu như nhà ai cũng tích sẵn thứ củi ấy trong bếp.
Nhà nào không có gộc tre thì có thứ gì đốt được, từ gốc, rễ,
cành cây khô hay bàn ghế gãy hỏng cũng mang ra cho cả
vào đốt bởi nồi bánh đun suốt cả ngày vô cùng tốn củi.
Tôi thích những ngày cuối năm trông nồi bánh
chưng còn vì một lẽ khác nữa, bởi hôm ấy tôi sẽ được
ông anh trai phù phép cho những bộ quần áo cũ kĩ
quanh năm nhàu nát và quăn tít lò xo thành ra như mới.
Tất cả là nhờ chiếc bàn là Con Gà dùng than thần
thánh. Anh tôi mượn nó ở đâu đó mang về làm chúng
tôi lác mắt. Chiếc bàn là có bụng rỗng để chứa than và
cái khóa hình con gà trống. Những cục than đỏ rực
được gắp ra từ bếp lửa bỏ vào bụng cái bàn là, hơi
nóng của than củi sẽ ủi phẳng “chết li” những bộ quần
áo cũ như có phép mầu nhiệm. Cái bàn là này đòi hỏi
phải có “kĩ thuật điêu luyện”, lơ mơ một chút là phải
bỏng ngay và cháy quần áo như chơi chứ chẳng phải
chuyện đùa. Chúng tôi há hốc mồm chờ đợi và thi nhau
mang những bộ quần áo cũ ra nhờ anh là hộ, mong
biến nó thành những bộ áo mới tinh thẳng thớm. Than
củi ngoài việc nướng ngô khoai ăn đỡ sốt ruột lúc chờ
nồi bánh chưng chín còn mang lại niềm vui không đến
hai lần trong cả năm trời dài đằng đẵng.
Bây giờ, những ngày cuối năm ngồi bên nồi bánh
chưng với củi lửa rực hồng đã không còn nhiều trong
cuộc sống hiện đại. Tết đến, trong sự no đủ khiến cho
bọn trẻ không còn phải ao ước cái bánh chưng hay
những món đồ ăn quanh năm chỉ có trong ngày Tết như
thời chúng tôi ngày trước nữa. Những ngày cuối tháng
Chạp, khi thấy người ta mang lá dong ra rửa bên giếng
nước, tôi hay thấy mình hân hoan bên đống lửa bập
bùng cháy. Khói gộc tre quanh quẩn bên góc sân nhỏ
cùng hương nếp quyện mùi lá dong nồng nàn ngây
ngất. Và trong tôi còn mãi ánh mắt náo nức khi mẹ mua
về đám củi cong queo sần sùi với cái bàn là than thần
thánh giúp những bộ quần áo cũ trở nên phẳng phiu
mới cứng. Lúc ấy, trong tôi, Tết đã đến thật gần…
CỦI TẾT
Tản văn của THÁI HƯƠNG LIÊN
N
gày cuối năm, lượng người đi lễ rất nhiều.
Cuối năm đi lễ tạ, đi lễ để giải hạn. Người
thích chùa nổi tiếng thì chọn nơi chùa to, sư
có chức sắc, có danh. Thế là nơi chùa ấy
đông nghịt. Người ta vái vọng vì có thấy gì đâu mà lễ
bái cụ thể. Người làng quê, người phố thích nơi yên
an, tìm chốn thanh tịnh về lễ chùa làng. Ở nơi đâu cầu
được là tuỳ theo ý nghĩ mỗi người. Nhưng Phật linh
thiêng, bàn tay Người rộng mở đón nhận tất cả. Vậy
nên, lễ nơi chùa to hay nhỏ, chùa phố hay chùa làng
phải đâu quan trọng. Khi đã có niềm tin, có tâm hướng
về cõi Phật thì đã thấu, đã thiêng là đều tốt lành
Từ Rằm tháng Giêng, người đi lễ nao nức khắp
nơi. Mà đúng hơn, qua mấy ngày Tết, từ Mùng ba,
Mùng năm Tết, người người đã rủ nhau đi lễ. Công sở,
công ty thuê xe đi cả phòng, cả lượt. Các cụ, các bà
thuê xe rủ nhau đi theo hội phụ lão, hội phụ nữ, không
thì hội bạn bè. Gia đình, nhóm gia đình, bạn bè rủ nhau
đi. Mà đâu có đi lễ một đền chùa, một phủ. Một lịch trình
đã định mỗi năm. Người ta là vậy đấy, cái gì cũng đã
quen. Thói quen định hình. Thói quen cố hữu. Đi lễ chùa
ấy, đền phủ ấy bao năm đã thành nếp. Thói quen còn
đem đến sự gần gũi: lối vào chùa, sư thày, nơi đặt lễ,
thay nước, thắp nhang. Hình như còn hơn nữa, khi
khấn vái ngước lên cũng cả đấng linh thiêng cũng như
thấu hiểu. Thói quen còn là cơ sở của lòng trung thành
vì không thay đổi. Nó cũng góp phần đưa ta niềm tin
vào nơi ấy, hư vô đấy. Không thấy ngay, thấy cụ thể
nhưng người đi lễ tin vào may mắn, tốt lành sẽ đến.
Điều ấy không quý ư giữa cuộc đời này. Chỉ trách kẻ lợi
dụng niềm tin của con người vào nơi cửa Phật. Đáng
lên án, đáng trừng phạt những kẻ náu sau tấm áo cà sa
lại sống như thói đời ham danh lợi.
Đi lễ và cũng là đi du xuân càng nao nức, rộn ràng.
Mà các nơi đền chùa bây giờ tu sửa lại cao ráo lắm, đẹp
lắm. Toà tháp 7 tầng, 9 tầng…Tượng Phật ngồi trên đài
cao vọng đến tận trời. Những cây cảnh, tiểu cảnh, cây
cầu nhỏ bắc qua dòng nước nhỏ, dàn hoa phong lan,
vườn hoa hồng… Nơi đền chùa bây giờ là một công
trình kiến trúc hoà hợp giữa tôn giáo và nghệ thuật đời
sống nên sức thu hút rất lớn. Đi lễ còn là đi vãn cảnh,
đi chụp ảnh ngày xuân. Về với các chùa làng để lễ đầu
năm yên tĩnh và cũng đầy không khí Tết. Trong tĩnh
lặng, ta có thể có được sự thư thái, an nhiên. Trong tĩnh
lặng, phải chăng điều ta thầm khấn không bị lẫn bởi
những bực dọc, chen chúc, thậm chí cả chướng tai gai
mắt ở chốn cửa thiền. Ôi nhưng người đời mà, biết sao
mà tránh, mà khuyên. Thôi thì tất cả tùy tâm, tùy phúc
phận mỗi người.
Đầu năm đi lễ du xuân vui vẻ và nhiều may mắn
đến với mỗi người. Chỉ là cửa thiền có ngưỡng, mong
sao lòng người cũng biết dừng trước mọi ngưỡng
trong đời.
“LỄ CẢ NĂM KHÔNG BẰNG RẰM THÁNG GIÊNG”. CÓ MỘT NIỀM TIN KHÔNG NHỎ ĐƯỢC ĐẶT NƠI
CỬA THIỀN NÊN LƯỢNG NGƯỜI ĐI LỄ NGÀY NHIỀU LÊN. TÌM GÌ, ĐƯỢC GÌ CỤ THỂ Ư? KHÔNG CẮT
NGHĨA NỔI VÌ CÓ KHI CẦU ĐƯỢC ƯỚC THẤY, CÓ KHI CHỈ ĐỂ TRÚT NỖI LÒNG VÀO CHỐN HƯ VÔ.
NGƯỜI ĐI LỄ TÌM THẤY MỘT CHỖ DỰA TINH THẦN CHO MÌNH VÀ VỚI HỌ, CÓ VẺ NHƯ TẠM ĐỦ
TRONG KHOẢNH KHẮC NÀO ĐÓ.
ĐI LỄ ĐẦU XUÂN
BÙI KIM ANH