Previous Page  110 / 120 Next Page
Information
Show Menu
Previous Page 110 / 120 Next Page
Page Background

Xuân Mậu Tuất 2018

110

S

uốt cả tuần mưa dầm, bếp

nhà Vừng không còn sót que

củi. Nước này, rút vách ra mà

đun thôi. Nói thì cãi chày cãi

cối. Gạo mới lo chứ lo gì củi. Lấy củi

cũng chỉ lo thừa, lo mục, lo mối xông.

Giờ thì ăn gạo sống. Vừng hậm hực,

ấm ức, tức tối mà không biết trút vào

đâu. Vì vợ con đi ngoại, nước sông lũ

to, chưa về được. Nhìn xuống dòng

sông phình căng, mắt Vừng sáng lên.

Vừng chụp cái nón không vành lên

đầu, cột quai cho chắc vào cái cằm lởm

chởm râu từng ấy ngày mưa chưa cạo.

Cẩn thận khép cửa bếp, Vừng phi ra

mưa, tụt xuống cái dốc cổng ngoằn

ngoèo đất đỏ lầy lội. Đến đường cái mà

mồ hôi dấp dính, nhớp nháp hai bên hố

nách. Ngó quanh, không thấy ai dưới

bến. Mưa to thế này, ai thèm xuống bến

sông làm gì. Mà lạ chưa, tháng mười

một rồi còn mưa lũ. Vừng thản nhiên đi

xuống bến sông, tiến thẳng đến gốc cây

cơi to xùm xòa mà cầm đầu sợi dây

chạc, choãi chân kéo mạnh. Sức trai ba

mươi có khác. Sau một hồi vật lộn với

nước, Vừng kéo được cái mảng nứa

ghếch đầu lên bến. Cái mảng chẵn chịn

mười cây nứa cái óng ả vàng. Của

đáng tội, nước ven bờ không xiết mấy.

Chứ nước như giữa dòng kia, nó chả

kéo bung cả gốc cơi lên mà cuốn đi,

chứ nói gì đến cái mảng. Sức Vừng sao

địch được. Vừng rút con dao dựa ra

khỏi bao đeo lủng lẳng bên hông. Trai

Tày, con dao chỉ rời khỏi người khi lên

giường ngủ với vợ. Lưỡi sao sắc lẻm,

vừa chạm vào mối lạt bện mảng, lạt đã

đứt lìa. Vừng lay từng cây một rồi rút

mạnh. Chả mấy, cả bè nứa đã nằm

ngoan ngoãn trên bến. Vừng chỉ việc

tách từng cây ra xếp vào thành đống,

sau đó bứt dây muống mủ bó lại thành

hai bó. Mỗi bó năm cây. Phải đi hai

chuyến mới hết. Vác nứa phải có mẹo.

Nhất là nứa ngâm nước. Mỗi bó, Vừng

để một cây thò lên khoảng nửa mét, rồi

đặt lên vai mà kéo đi. Chứ ai vác được.

Chưa đầy một giờ, cả hai bó nứa đã

nằm trên sân. Vẫn con dao ấy, Vừng

căn nứa thành nhiều khúc, chẻ tư, dựng

kín bếp. Nào. Giờ chỉ sợ không có gạo

mà thổi. Vừng hoan hỉ nhóm lửa, bắc

nồi. Còn mấy con cá khô rán nốt. Cứ

mưa thế này, chắc mai vợ con Vừng

cũng chưa về được. Vợ Vừng, lười có

tiếng ở vùng này. Luộm thuộm, bẩn thỉu

cũng có tiếng luôn. Nghĩ lại mà ghê, cái

độ thằng cò chưa đủ răng ấy, nó nhá

cơm cho con với cá khô. Cứ một mồm

đầy, thì con nửa, mẹ nửa. Nó đùn cơm

ra ba đầu ngón tay, vỗ bộp vào mồm

thằng bé đang nằm ngửa trên đùi. Rồi

cũng mấy cái ngón tay ấy, nó sờ hết

mông, hết chân thằng bé, rồi sờ cả chim

con. Trông mà bực vì cái bàn tay ấy

vừa lê la khắp vung nồi, khắp chiếu

ngồi. Nó nhá bốn bát cơm thì thằng bé

mới no. Khi dọn mâm, cũng mấy ngón

tay ấy, nó sục vào đáy nồi cơm mà lùng

cháy. Rồi thì vo, thì nắm, ăn hết vỉ cháy

to như cái quạt mới đứng lên dọn dẹp.

Bữa cơm nào cũng thế, mặt nó đầy nhọ

nồi. Tay, chân, vạt áo, chỗ nào cũng

nhọ. Hồi Vừng lấy nó, gia đình chẳng ai

đồng ý cả. Nhưng nó chửa rồi thì lấy

thôi. Cái sự chửa của nó, cũng hay.

Hôm ấy mưa như thế này, nó sang nhà

Vừng vay củi. Vừng ngạc nhiên. Lạ thế,

gái mười tám đi vay củi mà không biết

ngượng. Rồi Vừng đùa. Vay thì phải trả

đấy nhé. Nó gật lia lịa. Suốt cả tuần

mưa, nó vay củi ba lần. Cái lần thứ ba

ấy, cả nhà đi đám giỗ trong làng, mỗi

Vừng ở nhà. Vừng đang trùm chăn

nghe đài, thì nó mò lại xin nghe nhờ.

Thế là, sau chương trình dân ca ấy... nó

quen. Cứ nhà Vừng đi vắng hết là nó

sang. Khi mượn cào cuốc, lúc nhờ mài

dao. Độ dăm lần dân ca thì nó chửa.

Vừng tiết lộ với anh cả. Anh ngạc nhiên.

Mày chết nó ở điểm gì? Ở mấy cái nhọ

à? Vừng cũng ngạc nhiên. Ừ nhỉ? Sao

lại thế chứ?

Đang bần thần nhớ lại chuyện thì

lão Ang đứng sừng sững cửa bếp.

Vừng tái mặt. Lão Ang gằn giọng. Ai

cho mày lấy mảng tao làm củi? Vừng

nhanh trí. Cháu thấy nó trôi phăng

phăng ngoài sông, bơi ra dìu về, chẻ

đóm nhóm bếp. Chứ gan đâu mà dám

lấy mảng làm củi. Cháu tưởng mảng lạc

thôi. Lão Ang nhếch mép. Mày giỏi lắm.

Lạc hay không cũng là mảng tao. Tạnh

mưa, lấy nứa về đền tao. Không thì

đừng có trách. Nói rồi lão Ang quay

ngoắt. Vừng thấy mặt đỏ bừng vì xấu

hổ. Khốn nạn thế đấy. Đi làm thuê

quanh năm. Tậu được con trâu, ở nhà,

vợ bán, nương bỏ rậm. Tiền Vừng

mang về chỉ đủ gạo cho bốn miệng ăn.

Cái rau cũng không trồng được mà ăn

phải đi xin anh trai. Động nói ra là nó

bỏ đi ngoại. Nhà mẹ vợ Vừng, trước ở

gần nhà Vừng, nhưng sau này, bán hết,

chuyển sang bên kia sông, ở theo con

trai. Nghĩa là anh trai vợ đi ở rể. Có con

trai duy nhất cho đi ở rể, kể ra, cũng chỉ

có bố mẹ vợ Vừng làm thế. Rồi bán cả

nhà cửa, bỏ bản đi đến ở trên nhà

thông gia, cũng chỉ có bố mẹ Vừng làm

thế. Ai nói thì ông bà viện cớ, thông gia

khuất rồi, về một nơi cho tiện. Với lại,

cũng phải giữ lời với người đã chết chứ.

Ai lại, họ vừa nằm xuống đã nuốt lời,

đòi con trai về.

Ghét cái là vợ Vừng, nó cũng thậm

thụt qua về bên ấy quá nhiều lần cơ.

Một tuần thì đến năm ngày bên ấy. Lấy

chồng rồi mà như thể ngựa hoang.

Thích gì làm nấy như thể chồng chết rồi,

hoặc không có chồng vậy. Mà mẹ vợ

Vừng cũng hay lắm nhé. Lúc nào cũng

cái điệu. “Về! Về nhà thôi!”. Hơi tí giở

giọng đòi con gái về. Nực hết cả ruột.

Anh trai Vừng bảo: Mày trả đi, tao cho

mày vay con trâu mà cưới vợ khác.

Nhưng Vừng không nghe ai cả. Ăn ở

với nhau từng ấy năm tháng, chẳng gì

thì cũng thân thiết hơn cả người ruột thịt.

Lòng dạ nào lại làm thế. Nhưng mỗi lần

vợ Vừng bỏ về ngoại là Vừng tức lắm.

Tức mà chưa nghĩ ra cách gì để trị nó

cả. Từ giờ đến Tết, còn mấy đỗi. Vậy

mà gạo còn lưng vại, củi không một

que, gà lợn không có, bốn miệng người

có khâu lại được không? Hay kéo nhau

sang bên kia sông mà ăn vạ anh vợ.

Nhục quá thể là nhục. Vợ với chả con.

Đang nghĩ tiến nghĩ lùi thì vợ Vừng

cõng con về đứng lù lù trong sân. Tay

dắt đứa lớn, lưng đeo đứa bé, trước

ngực lủng lẳng hai quả bí ngô buộc dây

rừng vắt qua cổ. Hai tay hai cái rọ. Một

rọ đựng con lợn con, mõm nhọn hoắt,

lông đen nhánh, to hơn cái bắp chuối

rừng tí. Một rọ là bốn con gà con, cũng

đen nhủi như mấy con cuốc. Vừng đang

nhướng mắt lên nhìn thì nó quát. Ngu

thế! Không biết đường đỡ con xuống à.

Vừng cằn nhằn. Thế mày không biết

đường đặt hai cái rọ xuống à? Vợ Vừng

vênh mặt lên. Đặt thế nào được. Phải

cắm hướng chuồng đã rồi mới đặt

xuống, thì mới nuôi được chứ. Vừng phì

cười. Ba bữa nửa tháng mày lại không

đè chúng ra mà thịt ấy chứ. Bao nhiêu

lần Vừng chứng kiến nó bắt gà giống

nấu cháo ăn rồi. Ăn hết con ăn sang

mẹ. Lợn thì chưa mọc mũi sủi tăm nó đã

nại là chậm lớn, là hay phá vườn hàng

xóm, là hay vào nhà dũi ủi… Rồi thì nó

kết luận là phải thịt. Anh trai hay cô chú

bác họ hàng thương tình cứ cho con gì

là nó thịt con ấy rồi đổ cho chết bệnh

hoặc cáo cầy bắt. Vừng vừa đón thằng

bé ngủ gà gật trên địu xuống vừa tủm

tỉm cười. Đặt con vào giường rồi Vừng

quay ra gỡ hai quả bí nặng đến hơn

chục cân ra khỏi cổ nó. Nó xách hai cái

rọ đi ra đầu bếp bắt đầu dò hướng

chuồng. Nó thả cả rọ lợn xuống trước,

lấy tay ẩy mạnh, cái rọ lăn lông lốc

mấy vòng rồi dừng lại. Nó lấy chân

khều một hòn đá đặt vào chỗ ấy, chứ

cũng chả thèm cúi xuống. Sau đó, nó lại

làm thế với cái rọ gà. Như thế gọi là

cắm hướng chuồng. Xong rồi thì lấy hai

đoạn cây tươi cắm vào chỗ đã đánh

dấu làm cọc, buộc con lợn vào một cọc,

rọ gà vào một cọc. Nó rì rầm khấn gì

đó trong miệng rồi đi vào bếp, ngạc

nhiên hỏi. Này, đóm nứa ở đâu mà lắm

thế? Vừng nhoẻn cười. Mảng lão Ang

đấy. Lão vừa sang bắt đền. Nó sầm

mặt. Đền gì! Cứ để lão ấy sang đây…

Có vợ về, Vừng vững dạ hẳn, ra

vào cười nói vui vẻ. Mấy bữa nay không

thấy vợ nhọ mặt nữa. Quần áo, nhà

cửa, con cái cũng sạch sẽ gọn gàng

hơn. Nhất là cái bếp. Vừng thấy lạ lắm.

Cái con người bảo thủ này mà lại biết

thay đổi sao? Hỏi nó, nó ngúng nguẩy

không nói. Con lợn được chăm bẵm

cũng sỉnh lên đấy. Đàn gà con thì tôm

đã xòe cả rồi. Vợ chồng dí dúi bảo

nhau phát nương, đốt, chờ ngày tra hạt

xuống. Anh em, mỗi người mỗi bếp, ai

cho ai mãi được. Cái lão Ang năm lần

bảy lượt sang đòi mảng không được thì

chán rồi. Bỗng nhiên một hôm, nó nhắc,

vẻ bồn chồn ngao ngán như thiếu cái gì

Tác giả Tống Ngọc Hân sinh 1976; Quê quán: Thanh Ba - Phú Thọ, là Hội viên Hội Nhà

Văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ Thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam.

Giải thưởng chính:

Tập thơ đoạt giải thưởng của UBTQ Liên hiệp các hội văn học nghệ

thuật Việt Nam (2008); Tập truyện ngắn đoạt giải Ba của Hội văn học nghệ thuật Thiểu số

Việt Nam (2009)

;

Tập truyện ngắn đoạt giải Nhì giải thưởng Phan Xi Păng (2007 - 2012)

;

Giải Nhất Truyện ngắn Lào Cai (2012 - 2013)

;

Giải Ba Truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ

Quân đội (2013 - 2015)

;

Tiểu thuyết

Âm binh và lá ngón

đoạt Giải Ba cuộc thi Vì an ninh

Tổ quốc và bình yên cuộc sống do Bộ Công an và Hội nhà văn tổ chức (2012 - 2015); Tập

truyện ngắn đoạt Giải Ba cuộc thi Nông thôn đổi mới do Bộ Nông nghiệp và phát triển

nông thôn phối hợp Hội nhà văn Việt Nam tổ chức (2015 - 2016)

;

Tiểu thuyết

Huyết ngọc

giải Nhất giải thưởng Phan Xi Păng (2012 - 2017)

;

Giải Nhất Truyện ngắn ba tỉnh Lào Cai -

Yên Bái - Phú Thọ năm 2017.

Truyện ngắn

Vợ đẹp

đã ra đời như thế nào?

Khi được đề nghị cộng tác với TCTH, tôi nghĩ ngay đến câu chuyện như đã kể cho các bạn

nghe. Vì theo tôi được biết, đồng bào dân tộc Tày ở Lào Cai là cộng đồng dân tộc năng

động và nhạy cảm với hội nhập nhất. Họ rất chóng thích nghi với những đổi mới và luôn

biết tự rũ bỏ những gì cũ kĩ không còn phù hợp như cởi ra một chiếc áo vừa chật vừa rách.

Tôi không tham vọng vẽ một bức tranh lớn, mà chỉ kể về những hạt nhân nhỏ bé của xã hội.

Kể về cái cách họ đón nhận ánh sáng văn minh một cách chân thực nhất. Từ một người đàn

bà luộm thuộm, nhếch nhác đến chồng còn chán, chỉ nhờ cái ti vi nhà anh trai, cô ấy đã

khiến chồng mình phải ngỡ ngàng nhận ra những giá trị thật của bản thân mình mà lâu

nay đói nghèo, lạc hậu che phủ khiến ngay cả những người thân nhất chưa kịp nhận ra.

VỢ ĐẸP

Truyện ngắn của

Tống Ngọc Hân

Xuân Mậu Tuất 2018