Previous Page  106 / 120 Next Page
Information
Show Menu
Previous Page 106 / 120 Next Page
Page Background

Tản văn của:

Hương Thị

ngày xuân

cành đào

C

ành đào xứ Bắc cũng

giống như cây mai phương

Nam, như cây thông Giáng

sinh các nước. Cứ phải có

đào mới đúng là Tết. Những năm tôi

thơ bé, “phong trào” trưng quất Tết

chưa lan từ Hà Nội về tới các tỉnh nên

ngày Tết chỉ có hoa đào, một bình

hoa tươi khác gồm thược dược đủ

màu, cúc vàng, violet tím. Tuy không

tạo nên thế đối xứng về chiều cao,

tầm vóc nhưng chính vì thế cành đào

trở thành trung tâm của cả cái Tết.

Quê tôi miền trung du, thị trấn trải

dài quanh co dựa lưng vào núi. Trong

núi là các làng người dân tộc. Đất

vườn, đất đồi rộng mênh mông, nhà

nào cũng trồng dăm ba cây đào,

chẳng hẳn để ngắm cảnh, để ăn quả,

cũng chẳng hẳn để cuối năm đi bán.

Vì họ không bán riêng đào. Bao giờ

cũng thế, đào chỉ là thứ kèm theo, khi

thì buộc ngang gác-ba-ga xe đạp,

khi thì bó dọc cùng gánh củi, gánh lá

dong, lúc lại cắm trên xe cải tiến chở

rau lang cho lợn, lúc thì tùng tằng

trên quang gánh đựng ít đỗ, ít lạc.

Sáng sáng, mắt còn cay dèm, ngồi

chầu hẫu trước cửa nhà trong cái rét

cắt da thịt, ngắm những cành đào

lướt qua tôi cứ xuýt xoa hết giục mẹ,

giục bà, mua cành này, chọn cành

khác, rồi lại tiếc rẻ khi ai đó nhanh

tay mua mất.

Đào ta, thứ đào

phai mọc gần núi,

sống giữa những

dương xỉ, chè

xanh, dây leo

rừng đủ loại, dù

năm nào cũng

chặt cành nhưng

cành mới lên vẫn

mốc thếch địa y.

Cành đào nhỏ, mảnh

mai, bố mang vào tận

bếp, hối thúc chị hai đốt lá mít,

lá tre sao cho lửa đều, không được

cháy đùng đùng kẻo khói táp vào làm

sém hoa. Cành to, anh cả phải đích

thân ra tay, cầm nắm đóm lửa to

mang ra giữa sân để châm lửa đốt

gốc. Cái lọ cắm hoa đào cũng phải

kén người rửa. Lũ chúng tôi bé tí, nhiệt

tình có thừa nhưng hậu đậu không

thiếu thì phải tránh xa. Có năm chị hai

đã rửa lọ để một góc, khi cành đào

vừa được đốt gốc xong, tôi le te chạy

ra bê, chân vấp phải thanh gộc tre,

ngã lăn quay, chiếc lọ vỡ tan. Tôi vừa

sợ vừa đau, khóc òa lên. Anh cả, chị

hai thì mắng mỏ thậm tệ, đay nghiến

tôi như kẻ phá hoại. Bố thì chẳng nói

câu nào, còn mẹ tôi thì đành ngậm

ngùi đi mua chiếc lọ mới...

Sáng nào, tôi cũng dậy chạy ra

đếm xem có bao nhiêu nụ sẽ nở trong

ngày. Đếm đi, đếm lại khiến chị tôi sốt

ruột, bảo: “Mày đếm ít thôi, đừng có

chỉ tay vào nụ, nó rụng mất. Đếm

nhiều nó nở hết, lấy đâu ra hoa mà

chơi Tết”. Thế là tôi không dám chỉ tay

vào từng nụ nữa, nhưng như thế thì

cứ đếm lẫn lộn hết cả. Có năm đào

nở sớm, trên cành đã lác đác vài quả

non, phơn phớt lông tơ, trông rất

thích mắt. Bố tôi bảo, cắm cành đào

này, nhất định năm nay nhà mình sẽ

có nhiều lộc. Chúng tôi cũng mong

thế. Nhiều lộc, với trẻ con là bố mẹ

có tiền, Tết đến được mua quần áo

mới, được thỏa thích ăn thịt gà, giò,

nem, nhiều loại bánh trái và kẹo.

Thỉnh thoảng xin tiền mua quả bóng

bay thổi căng lên chơi trò đánh

bóng, chuyền qua chuyền lại, thế là

mãn nguyện.

Có năm, thiên hạ đã xôn xao sắm

Tết rồi mà cả nhà còn phải trông chờ

vào những đồng tiền tạm ứng còm cõi

của mẹ. Ngày nào đi làm về gương

mặt mẹ cũng sắt seo lại, vì rét, vì chưa

có tiền. Mãi đến 27 Tết, chúng tôi học

xong buổi học cuối cùng, mẹ cũng đi

làm ngày cuối cùng về thấy cả lũ ra

cổng ngóng, mẹ không giấu nổi

nghẹn ngào, khẽ nói, run run: “Mẹ

lấy được tiền rồi các con ạ”.

Chỉ cần nghe thấy thế là

tôi nhảy chân sáo đi

chơi, trong lòng cờ

hoa như đang nở rộ.

Đấy là lúc cả bố,

mẹ, bà và các anh

chị chụm đầu bàn

bạc. Một nửa tháng

lương tạm ứng của

mẹ là cả một bài toán

khó cho Tết. Thôi thì con

gà mái duy nhất sẽ bị

mang ra thịt, ra Giêng mang

trứng sang nhờ gà hàng xóm ấp,

được con nào gây giống con ấy sau.

Con lợn mới nuôi được hai tháng,

được độ hơn chục cân, chẳng to hơn

con chó là bao nhiêu, cứ mang ra thịt

đã. Các anh chị thống nhất không đòi

áo mới, dép cũng không có, mang ra

hàn lại, vẫn đi tốt, chỉ cần cẩn thận

hơn là được. Chỉ có tôi không được

hỏi ý kiến gì thì lại có một đôi dép

mới. Giá đôi dép bằng một cành đào

con, nhưng nếu có được hỏi thì chắc

chắn tôi sẽ chọn đôi dép chứ không

phải cành đào.

Đến chiều 29 Tết, khi cỗ bàn Tất

niên đã xong, diễn đôi dép đi khắp

xóm để khoe, nhìn những nhà hàng

xóm tưng bừng cành đào treo đèn

106

nhấp nháy và những quả bóng bay

xanh đỏ tôi mới nhớ ra nhà mình

không có đào. Tôi nằng nặc đòi mẹ.

Tôi khóc lăn ra ăn vạ dù

đã tắm rửa sạch sẽ

từ chiều. Sẩm tối

rồi, kiếm đâu ra

đào bây giờ?

Cả nhà ái ngại

nhìn nhau.

Không chừng

tôi khóc qua

Giao thừa thì

dông. Bỗng chị

tôi nảy ra một ý.

Chị bảo anh soi đèn

pin ra góc vườn, nhổ lên

cành đào từ năm ngoái cắm ở đó.

Cành đào ấy ra Giêng hoa lá xum

xuê tươi tốt, tôi cứ đinh ninh trồng

xuống nó sẽ sống thành cây nên bắt

bố cắm ở đó rồi quên bẵng đi. May

là chưa bị cho vào đun nồi bánh

chưng. Cành đào khô khỏng, đã rụng

nhiều nhánh nhỏ nhưng vẫn ra dáng

một cành đào. Chị tôi mang giấy màu

làm thủ công ra, cầm kéo cắt tỉa một

hồi. Chị vốn khéo tay. Anh cả tôi vụng

về nhưng cũng vẫn có nhiệm vụ

mang lọ hồ dán ra ngồi

chắp dán. Gần đến

Giao thừa thì nhà tôi

đã có một “cành

đào” đủ hoa đỏ

lá xanh...

Từ đấy, những

cành đào sau xuân

thường được phơi khô

cẩn thận phòng năm

sau thiếu thốn. Cứ gần Tết

là chị tôi lại lo tích cóp giấy

màu, cả giấy trang kim. Chị chẳng

mong được trổ tài khéo tay lần nào

nữa, cũng may, nhà tôi chẳng bao

giờ phải trưng cành đào chưa từng có

ấy một lần nữa. Thế cũng đủ để thấy,

những cánh đào hồng phớt rụng rơi

trên nền nhà hay cành đào vẫn hồng

rực góc sân lúc ra Giêng là quý đến

mức nào.

Xuân Đinh Dậu 2017