23
đi, mỗi người mang một đôi dép mo cau,
lúc nào rách lại thay đôi khác. Đến đèo
Ngang, đứng trên núi Hoành Sơn nhìn ra
bể, Cao tiên sinh kinh hoàng trước cảnh
thiên nhiên dữ dội, vội vã lên đường:
“Hải thượng bạch ba như bạch đầu/Nộ
phong hãm phá vạn hộc châu.../Sơn Bắc,
sơn Nam thiên vạn lí/Công danh nhất lộ
kỉ nhân nhàn?/Quan cái phân phân ngã
hành hĩ!” (Sóng trên mặt bể trắng xóa
như đầu bạc/Gió táp xô vỡ chiếc thuyền
lớn hàng muôn hộc.../Phía Bắc núi, phía
Nam núi, suốt nghìn muôn dặm/Trên
đường công danh, đã mấy ai nhàn?/ Mũ
lọng nhộn nhịp, ta cũng đi đây!).
Ông Sắc cõng Sinh Cung rảo bước.
Bà Loan gồng gánh đồ đoàn, dắt tay Sinh
Khiêm cặm cụi theo sau. Chú bé Sinh
Cung 5 tuổi được cha cõng trên lưng,
thấy Hoành Sơn có con đường mòn đất
đỏ vắt qua đẹp quá, reo lên thành thơ:
“Núi cõng con đường mòn/Cha thì cõng
theo con/Núi nằm ì một chỗ/ Cha đi
cúi lom khom/Đường bám lì lưng núi/
Con tập chạy lon ton/Cha siêng hơn hòn
núi/Con đường lười hơn con!”. Bài thơ
được cụ Cả Khiêm chép lại trong tập
Tất Đạt tự ngôn
. Năm 1950, vài tháng
trước khi mất, cụ đem tập thơ cho nhà
văn Sơn Tùng.
Sau 6 năm ở Huế, tháng 2/1901,
mẹ qua đời, hai anh em Nguyễn Sinh
Khiêm - Nguyễn Sinh Cung lại theo cha
đi bộ về Kim Liên, Nam Đàn. Đường
xuyên Việt những năm đầu thế kỉ xuyên
qua truông rậm, núi cao. Chiều tối đến
những chặng đường hoang vắng, thú dữ
rình người.
Tháng 6/1906, ba cha con lại đi bộ từ
Nam Đàn vào Huế lần nữa, đường xa đến
vài trăm cây số, đi bộ mãi thành quen,
cũng trở nên gần, người đi không còn
thấy ngại!
Năm 1908, Bác Hồ lúc này mang tên
Nguyễn Tất Thành, bị buộc phải thôi học
ở trường Quốc học Huế vì đã tham gia
cuộc biểu tình chống thuế của nông dân.
Tháng 7/1909, để tránh bị chính quyền
theo dõi, Nguyễn Tất Thành đi bộ về
phương Nam, tới Sài Gòn, hi vọng tìm
đường ra nước ngoài. Từ Huế đến Bình
Khê tỉnh Bình Định, nơi ông Phó bảng
Sắc làm tri huyện, khoảng 300 cây số,
Tất Thành ghé thăm cha, rồi lại đi tiếp
vào Phan Rang, giữa lúc cơn bão lớn
ngoài khơi tràn vào.
Sau này, khi làm phim về đất nước,
tôi nhiều lần đi dọc miền Trung. Phong
cảnh khiến tôi mường tượng thấy hình
bóng của Bác cắm cúi giữa con đường
vượt qua những đỉnh đèo cao. Tháng 7,
vào mùa nắng dữ, hai bên đường vào
Phan Rang hàng trăm cây số, các bụi
tre hoang dã, khô cháy một màu chết
chóc, không một bóng người. Vậy mà,
19 tuổi, Người vẫn một mình đi bộ đến
được Sài Gòn dù đói khát và hai bàn
chân bỏng rộp!
Đầu năm 1990, tôi từ Nam Ninh về
Tĩnh Tây, với ý định thăm nơi Bác ở và
hoạt động cách mạng quãng năm 1942,
khởi đầu cho chuyến đi bộ gian nan cực
khổ nhất trong đời hoạt động của Bác,
chuyến đi trong thời kì
Nhật ký trong
tù
. Ô tô chạy suốt đêm, đường dài thăm
thẳm, đồi núi trập trùng. Chòm xóm
dưới thung xa thấp thoáng ánh đèn như
sao mờ. Tôi bước vào xóm Pà Mông -
xóm nhỏ xưa cũ, cây cầu gạch cổ bắc
qua con suối nhỏ cạn trơ sỏi đá. Nắng
vàng hiu hắt trên những mái ngõ cũ rêu
xanh. Chúng tôi ngồi trò chuyện với bà
con trong xóm sang chơi nhà cụ Từ Vĩ
Tam, anh em kết nghĩa với cụ Hồ từ năm
1940. Cụ ông đã qua đời, chỉ còn cụ bà
tuổi ngoài 80. Nhắc tới cụ Hồ, cụ bà vừa
khóc, vừa lấy vạt áo bông xanh lau nước
mắt. Cụ Hoàng Tài Hán, hàng xóm của
cụ Tam dẫn tôi đi thăm núi Phong Nham.
Trên núi, có hang Thông Phong xuyên
qua núi, sương khói mờ ảo, ẩn hiện mấy
bài thơ viết trên vách đá. Cụ Hán trân
trọng nói với tôi: “Đó là bài thơ của
cụ Hồ. Cụ ở trong hang với tôi hồi năm
1941”. Độ ấy, cụ Hán sinh nhai bằng
nghề nấu rượu. Cụ Hồ thường giúp
cụ Hán nhóm lửa, nếm rượu. Hai cụ ngồi
canh nồi rượu, rù rì trò chuyện suốt đêm,
cùng lắng nghe gà gáy vọng lên dưới
xóm Pà Mông mịt mùng. Tôi lấy làm tiếc
không ghi lại được bài thơ Bác viết trên
vách đá, ánh sáng mập mờ, chỉ đọc được
bốn chữ: “Ẩn cư hoạt lộ” (Ở ẩn để tìm
đường hoạt động). Tôi mong ước dịp nào
đó sẽ trở lại đây với máy quay phim để
ghi lại thơ của Bác.
(Xem tiếp trang 24)
NSND Đào Trọng Khánh
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường đi Chiến dịch biên giới