

55
động, vừa vui nhộn, vừa trầm lắng, nhịp
nhàng, du dương khó tả... Ở âm vực cao,
tiếng đàn đá nghe thanh thót xa xăm. Ở
âm vực trầm, đàn đá vang lên như tiếng
dội từ vách đá.
Ngày tiếp theo, chúng tôi được các
chuyên gia ở Sở Văn hóa tỉnh Kon Tum
dẫn đến một vùng có thể coi là hoang sơ
nhất Kon Tum, xã Đăk Tơ Kan, huyện Tu
Mơ Rông. Đây là vùng đất còn lưu giữ
được những nét nguyên bản của Văn hóa
Tây Nguyên, từ nhà sàn, nhà rông, đến
trang phục hay sinh hoạt. Chúng tôi đến
đây vào đúng dịp các gia đình ăn mừng
lúa mới. Những ché rượu cần, của ngon
vật lạ được bày ra sau khi đoàn làm phim
quay xong những cảnh cuối cùng…
Cồng chiêng gắn bó với con người
Tây Nguyên từ khi mới chào đời cho đến
khi tiễn đưa linh hồn về nơi bến nước.
Bởi vậy, theo quan niệm tâm linh của
đồng bào Tây Nguyên, đằng sau mỗi
chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một vị
thần. Chính vì vậy, tiếng chiêng khi đánh
lên là tiếng nói của con người với thế
giới thần linh, là ước mong tới Giàng,
tới Mẹ Lúa, tới Thần Sông, Thần Núi...
về một cuộc sống ấm no, yên bình. Tùy
từng tộc người, cồng chiêng được sắp
xếp theo những biên chế cũng như lựa
chọn phương pháp kích âm khác nhau để
tạo thành nền nghệ thuật của riêng mình.
Nếu như bộ chiêng Tha của người Brâu
chỉ có hai chiếc thì các tộc người phía
Bắc Tây Nguyên như Ja Rai, Bahnar, Xê
đăng sở hữu những dàn chiêng đồng lên
đến hàng chục chiếc. Cồng chiêng vốn là
nhạc cụ đa âm, bên cạnh âm cơ bản bao
giờ cũng vang kèm một vài âm phụ khác.
Bởi vậy mà âm sắc cồng chiêng nghe
thật đầy đặn và có chiều sâu. Để ghi hình
được đầy đủ các loại cồng chiêng Tây
Nguyên, chúng tôi phải đi từ Kon Tum,
qua Gia Lai, sang Đăk Lắc để được trải
nghiệm những giai điệu, tiết tấu chiêng
của người Giarai, Barhna, Ê đê; Từ
chiêng đồng đến chiêng tre, đến cách chế
tạo, chỉnh âm và chơi hòa tấu.
Nếu như những chiếc chiêng đồng
mang sức mạnh thiêng liêng, là ngôn
ngữ giao tiếp với thần linh của cả cộng
đồng thì chiêng tre lại gần gũi, thân thuộc
với cuộc sống sinh hoạt đời thường của
đồng bào Tây Nguyên. Vì vậy, tiếng cồng
chiêng không chỉ là tiếng nói tâm linh
mà còn là đặc trưng của từng tộc người.
Khi tiếng chiêng vang lên, nó có thể giúp
người nghe hiểu được phong cách sống
và xử thế của mỗi dân tộc.
Những ngày tiếp theo ở Tây Nguyên,
mỗi vùng đất, mỗi nghệ nhân chúng tôi
gặp lại mang tới cho chúng tôi thêm
nhiều điều bất ngờ và ấn tượng. Đầu
tiên là hát kể sử thi. Đây là hình thức
hát dân ca của Tây Nguyên có phương
thức thể hiện giống như một lời tự sự và
không có nhạc cụ đệm. Gắn với hát kể sử
thi, người Tây Nguyên có tới “hai cuộc
sống”. Khi cuộc sống mưu sinh ban ngày
kết thúc cũng là lúc một cuộc sống khác
về đêm, kì diệu và bí ẩn với những đêm
hát kể sử thi được mở ra. Nếu như tiếng
cồng chiêng gắn bó với con người Tây
Nguyên từ khi sinh ra đến khi từ giã cõi
đời, thì những câu chuyện về thế giới của
các vị thần, những người anh hùng chiến
thắng tự nhiên, bảo vệ buôn làng cũng đi
vào tâm thức của họ từ khi còn là những
đứa trẻ. Trong thế giới siêu nhiên kì bí
ấy, họ sáng tạo ra truyền thuyết về sự
khai thiên lập địa, mối quan hệ của con
người với các thần linh, ấp ủ ước mơ về
tình yêu, về một cuộc sống tươi đẹp sau
những khó khăn, thử thách.
Khác với hát kể sử thi, các loại hình
dân ca khác của người Tây Nguyên luôn
cần được hát và đệm cùng các loại nhạc
cụ mà đàn K’long put là một nhạc cụ
tiêu biểu. Người ta tin rằng, ẩn chứa bên
trong loại nhạc cụ này là linh hồn của
“Mẹ Lúa” vì đàn K’long put vốn là một
dụng cụ trỉa lúa trên nương. Bà con nơi
đây đã biến một công cụ sản xuất thành
một loại nhạc cụ. Giống như đàn K’long
put, đàn T’rưng cũng được coi là một
nhạc cụ không thể thiếu trong đời sống
âm nhạc của đồng bào Tây Nguyên. Qua
câu chuyện trao đổi với già làng Srưm
làng Mơhra, chúng tôi được biết, xa xưa,
đồng bào Tây Nguyên dùng đàn T’rưng
như một vật dụng đuổi chim hay hình
thức gõ để báo giờ nghỉ ngơi, tập họp
trên nương rẫy… Trải qua thời gian, nhờ
đôi bàn tay khéo léo và kĩ thuật thẩm âm
điêu luyện của các nghệ nhân, những ống
nứa vô tri đã trở thành một dàn đàn biết
cất lên những giai điệu thánh thót.
Cuộc sống hiện đại không chỉ khiến
quan niệm về thế giới thần linh cổ xưa
của đồng bào thay đổi mà cả những nghi
lễ cổ truyền cùng các hoạt động nghệ
thuật với sự trao truyền giữa các thế hệ
cũng mất dần sự kết nối. Điều đó khiến
chúng tôi - những người thực hiện
Nẻo
về nguồn cội
- thấy mình cần cố gắng và
có trách nhiệm hơn trong việc bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa trên miền cao
nguyên đất đỏ bao la này.
Yến Trang (
Ghi)