27
được những bông hoa hồng sạch đúng
nghĩa. Thế nhưng, quan trọng hơn cả là
chị đã kiên định, không ngại vượt qua
khó khăn, đầu tư khoản tiền lớn để cải
tạo đất đai, cách chăm sóc, vun trồng cây
hoa, góp phần thay đổi suy nghĩ, khuyến
khích người dân địa phương phát triển
những mô hình sạch giống như vậy. Cầm
trên tay sản phẩm mĩ phẩm thiên nhiên
sạch, an toàn của chị Thanh Hằng, tôi
không khỏi thán phục và trân trọng tâm
huyết của những người như chị.
Trong các chuyến đi của mình, tôi
không thể quên được những ngày ghi
hình tại hợp tác xã rau Đại Ngàn gần
rừng quốc gia Ba Vì. Trồng rau sạch
bốn mùa theo mô hình ruộng bậc thang,
nước tưới được dẫn thẳng từ rừng quốc
gia Ba Vì, với quy mô lên đến 6 hecta
nhưng lượng rau vẫn không đủ để cung
cấp cho nhu cầu nội đô. Chúng tôi được
biết, trong khoảng 5 năm đầu, chủ vườn
đã chấp nhận lỗ hoàn toàn và phải bù lỗ
bằng cách nuôi lợn rừng. Thời gian đầu,
chặng đường từ nông trại đến tay người
tiêu dùng vô cùng khó khăn do người
dân chưa có thói quen tiêu dùng rau
sạch. Dần dần, khi kinh doanh bắt đầu
có lãi, chủ vườn mới có thể mở rộng quy
mô sản xuất và thị trường tiêu thụ rau
sạch. Chia sẻ với chúng tôi, chủ vườn
cho biết, bên cạnh mục đích kinh doanh,
điều họ trăn trở nhất khi thực hiện mô
hình rau rạch là muốn đem đến cho
người Việt những sản phẩm có giá trị
thực thụ, để khẳng định người Việt hoàn
toàn có thể sáng tạo và làm ra những sản
phẩm tốt phục vụ người dân.
Hiện nay, rất nhiều sản phẩm trong
nước có chất lượng không thua kém
hàng ngoại nhập mà giá cả lại hợp lí
hơn. Tôi nhớ chuyến đi đến một cơ sở
làm xà phòng tại Ninh Bình. Tại đó,
tất cả nguyên liệu sản xuất là dược liệu
được trồng tại vùng núi Ninh Bình, cộng
thêm quy trình sản xuất nghiêm ngặt đã
cho ra những bánh xà phòng nguồn gốc
thiên nhiên có chất lượng tốt không khác
gì các sản phẩm ngoại nhập. Và cũng
từ đó, tôi thay đổi hẳn quan điểm “hàng
ngoại mới tốt”. Quan trọng là chúng ta
phải tìm đến những sản phẩm trong nước
có uy tín, được cơ quan chức năng cấp
chứng nhận, có tiêu chuẩn kiểm định
chất lượng an toàn. Đó cũng chính là lí
do trong mỗi chương trình, chúng tôi
đều cung cấp mã QR code của mỗi sản
phẩm để khán giả có thể truy xuất, tra
cứu thông tin xuất xứ của những sản
phẩm an toàn.
Qua nhiều chuyến đi, tôi nhận thấy,
các chủ cơ sở sản xuất mô hình xanh
đều chung một trăn trở về việc người
Việt chưa hình thành thói quen tiêu dùng
“chất lượng đi đôi với giá cả”, dù rằng
họ đã cố gắng bán sản phẩm ở mức thấp
nhất để người thu nhập trung bình cũng
có thể tiếp cận được sản phẩm xanh,
sạch, an toàn. Nên chăng, người tiêu
dùng cần hình thành thói quen lựa chọn
sản phẩm một cách thông minh và tỉnh
táo, như truy xuất thông tin sản phẩm
hay mua sản phẩm ở những cơ sở uy
tín… Nhiều chủ sản xuất đã không ngại
chia sẻ với chúng tôi về hoài bão của
mình. Họ thực hiện những mô hình xanh
không chỉ nhằm mục đích cung cấp sản
phẩm xanh, sạch cho người tiêu dùng
mà còn để thay đổi quan điểm về sản
xuất thực phẩm sạch của cả chính những
người lao động tại địa phương, để từ đó
họ có thể nắm bắt được mô hình trồng
trọt theo quy trình an toàn.
Khi mỗi người trong chúng ta ủng hộ
sản phẩm xanh, sạch nghĩa là chúng ta
đã ủng hộ một nếp nghĩ, một tư duy sản
xuất mới. Mong rằng ngày càng có nhiều
người tin tưởng, ủng hộ những sáng
tạo và sáng chế của người Việt Nam để
những mô hình sản xuất xanh an toàn
ngày càng lan tỏa và nhân rộng.
Diệp Chi
(Ghi)
Ekip chương trình tác nghiệp tại
các cơ sở sản xuất thực phẩm an toàn