31
80 tuổi thuộc vài làn điệu. Bà Lan chia
sẻ: “Ngày đó chúng tôi tập hợp được 25
người, bao gồm cả những cụ bà và thanh
thiếu niên. Trong xã chỉ còn vỏn vẹn vài cụ
từng hát tại Hội như cụ: Tạ Văn Lai, Kiều
Thị Nhuận, Đàm Thị Điều… sau
khi trình bày lí do muốn lưu
giữ lại điệu hát mà các
cụ thuộc, thuyết phục
mãi tôi cũng ghi lại
được dăm, ba làn
điệu”. Mọi sự đang
tiến triển tốt thì bỗng
dưng có điều trùng
hợp rất khó giải thích,
đó là sau khi các cụ
truyền lại những điệu hát
cổ xong đều sinh ốm đau
rồi mất. Thế rồi, một
thành viên trong câu lạc
bộ cũng xin nghỉ vì gia
đình cấm. Sau khi người này nghỉ, các
thành viên đang học hát Dô cũng lần
lượt xin bà Lan nghỉ theo.
Để lấy lại tinh thần cho mọi người, bà
Lan cùng lãnh đạo địa phương ngoài việc
vận động các thành viên tiếp tục học hát
còn gấp rút “làm lễ”, xin mở cuốn sách cổ
ghi các làn điệu hát Dô trong đền Khánh
Xuân. Năm 1998, Câu lạc bộ hát Dô Liệp
Tuyết chính thức được thành lập.
Theo bà Lan, hát Dô gồm
có tổng cộng 36 làn điệu,
nó gần gũi, dân dã tới
mức, từ câu chữ đến
lối diễn đều hoàn
toàn mô phỏng đời
sống hằng ngày của
người lao động. Ví
dụ như:
Rủ là rủ nhau,
rủ là rủ nhau, ồ rằng
lên núi, ồ rằng lên núi, lên
núi hái chè/ Hái dăm ba
mớ, xuống khe, xuống
khe ta ngồi, ta ngồi
...
Đặc biệt hơn, nó hay
theo đúng nghĩa với âm điệu lạ, luyến láy
không thể lẫn với các điệu hát khác.
Nói sâu thêm về hát Dô, ông Kiều
Văn Bạch hồ hởi: “Ghi nhận những giá
trị của hát Dô Liệp Tuyết, năm 2003 Hội
Văn nghệ Dân gian Việt Nam đã công
nhận hát Dô là địa chỉ văn hóa dân gian.
Năm 2005, Hội Văn nghệ dân gian Việt
Nam đã phối hợp với quỹ Ford thực hiện
dự án bảo tồn và phát huy hát Dô. Bà
Nguyễn Thị Lan hiện cũng được các ban
ngành chức năng công nhận danh hiệu
nghệ nhân hát Dô”.
Bằng sự gắng sức bảo tồn, nay hát
Dô ở Liệp Tuyết đã không phải chờ đợi
36 năm mới được tổ chức một lần nữa.
Mỗi độ xuân về, đội hình hát Dô bao gồm
“Cái hát” (người nam giữ nhịp hát) và các
“Bạn nàng” (Những người con gái trong
đội hình hát), lại khiến không khí đón
xuân ở Liệp Tuyết càng trở nên ấm nồng.
Hát Dô không chỉ được những người dân
nơi đây gìn giữ thành công mà nó còn ra
cả nước ngoài. Những điều kì bí do “lời
nguyền của Thánh” đem lại không còn
làm cho người hát Dô sợ hãi nữa mà nó
còn như thêm chút “gia vị” để tạo cho hát
Dô những bí ẩn, linh thiêng.
Văn Hương Lâm
Ông Kiều Văn Bạch đưa ra những
tài liệu chứng minh điệu hát Dô có
gốc tích lâu đời