30
VTV
Văn hóa
Giải trí
N
gười Làng Đại Phu lại gọi hát
Dô bằng một cái tên văn thơ
hơn đó là “điệu hát của
Thánh Tản Viên”. Điệu hát
Dô đã đi qua những ngày “giông bão”
bởi sự lãng quên và “ghẻ lạnh” của
người dân để phục hồi và có sức lan tỏa
vô cùng mạnh mẽ, để rồi vượt qua cả
biên giới Việt Nam mà “đặt chân” đến
sân khấu nước ngoài.
Điệu hát đi vào quên lãng
Tôi dành cả một buổi chiều để tìm
hiểu về điệu hát Dô thông qua ông
Kiều Văn Bạch một cán bộ phụ trách văn
phòng Ủy ban xã Liệp Tuyết và cũng là
người nắm giữ nhiều tài liệu, kiến thức
liên quan đến điệu hát cổ này. Qua lời kể
của ông Bạch, làn điệu hát Dô mà Liệp
Tuyết đang có là làn điệu cổ nhất mà dân
tộc còn lưu truyền được đến ngày nay.
Hát Dô là làn điệu phản ánh nhận thức
của con người Lạc Việt về thiên nhiên và
ước mơ của nông dân về một cuộc đời
êm ấm, thời tiết thuận hòa, mùa màng bội
thu, con cháu đông đúc. Hát hội Dô còn
là tiếng ca trữ tình, nồng nàn về tình yêu
nam nữ, về hạnh phúc lứa đôi của người
nông dân dưới chế độ phong kiến.
Căn cứ theo lời kể và sổ sách về điệu
hát Dô mà ông Bạch cung cấp, gốc tích
hát Dô được thuật lại như sau: Trong một
lần đức Thánh Tản du ngoạn có đi qua
đoạn ven sông Tích. Khi đến xã Lạp Hạ
(nay là Liệp Tuyết) thấy ruộng đất phì
nhiêu nhưng dân cư nghèo nàn, thưa thớt,
ngài bèn dừng lại dạy dân trồng trọt, cày
cấy. Không chỉ vậy, ngài còn gọi nam
thanh nữ tú (trai chưa vợ, gái chưa chồng)
đến dạy hát múa. Sau đó, Đức Thánh Tản
ra đi, hẹn mùa lúa chín sẽ về.
Mùa đó, người dân Lạp Hạ bội thu
nhưng ngóng chờ mãi vẫn không thấy
ân nhân quay lại. Người dân bèn dựng
đền Khánh Xuân để lưu giữ và truyền
dạy những điệu hát Thánh dạy. Bẵng
đi quãng thời gian 36 năm sau, Đức
Thánh Tản Viên mới quay lại. Thấy
dân no ấm, ngài đã cùng dân tổ chức
hát lại những bài hát mà mình đã dạy
thuở nào. Trước khi đi, Thánh Tản cùng
dân Lạp Hạ giao kết rằng hội hát sẽ chỉ
được tổ chức sau khoảng thời gian 36
năm. Ngài cũng nguyền rằng, những ai
dám xóa bỏ giao kết này sẽ gặp những
chuyện không tốt lành…
Theo lời các cao niên làng Đại Phu,
tục lệ khi xưa quy định khá ngặt nghèo
nên người biết tường tận hát Dô gần như
không có ai. Tục lệ ngặt nghèo ở chỗ,
người làng chỉ được phép học hát vào
quãng tháng 8 năm thứ 35. Khi ấy, dân
làng mới bắt đầu đi tuyển các thiếu nữ
từ 12 đến 18 tuổi để học các điệu hát ghi
trong sách cổ. Những người hát nhất thiết
phải đáp ứng yêu cầu như:
Con hát tuổi
hạn hai mươi/ Nếu qua độ ấy thì thôi hát
hò/ Bao giờ đến hội hát Dô/ Thì còn phải
kiếm gái tơ chưa chồng...
Sau khi mở
tráp, việc lấy sách học chỉ diễn ra từ ngày
mùng 10 đến 15. Cách đúng 35 năm sau
mới được mở ra lần tiếp. Sau ngày hội,
dân làng tuyệt đối không ai được nhắc
đến cụm từ “hát Dô”, không được cất
tiếng hát và càng không được phép mở
tráp ra xem sách nếu chưa đúng năm. Tất
cả những đồ vật dùng trong lễ hát Dô như
khăn, váy, túi đeo tay đựng trầu, sách ghi
chép các làn điệu hát đều phải cất
vào đền…
Vượt qua lời nguyền,
dựng lại điệu hát cổ
Quà Thánh rơi ở giữa làng/ Phúc tôi
“nhặt” được phải năng giữ gìn/ Hai con
một nách, không tiền/ Hát Dô tôi biết còn
“hèm” thì... quên
. Lời thơ mà bà Nguyễn
Thị Lan, chủ nhiệm CLB hát Dô xã Liệp
Tuyết đọc cho chúng tôi nghe tưởng
chừng cho vui tai, nhưng nếu ngẫm kĩ thì
nó như một đoạn kết vắn tắt ghi lại quãng
thời gian vượt qua lời nguyền, dựng lại
thành công điệu hát cổ.
Nghe bà Lan thuật lại, năm 1989
huyện Quốc Oai bắt đầu manh nha ý
tưởng phục dựng lại hát Dô nhưng khi
đem đề xuất với dân làng thì ai cũng…
sợ. Người Liệp Tuyết sợ hát Dô một
phần vì lời nguyền, phần khác vì chẳng
ai biết hát Dô là gì ngoài dăm, ba cụ hơn
Những điều chưa kể về
điệu hát Dô
Về làng Đại Phu, xã Liệp Tuyết
(huyện Quốc Oai, Hà Nội) trong
một buổi đầu mùa hạ, bắt gặp
một điệu hát cổ đậm chất xứ
Đoài mà xưa nay người ta
thường gọi bằng cái tên đầy
chất mộc mạc - “hát Dô”.
Một chiếu hát Dô