

Truyền hình
-
37
- VTV với 3 màu Đỏ (Red), Xanh lá
cây (Green) và Xanh nước biển (Blue)
thể hiện 3 màu cơ bản của truyền hình.
Chuyển sang phát hình màu
Từ cuối thập kỉ 70 của thế kỉ trước,
dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ Nguyễn
Ngọc Ngoạn (khi đó là Kĩ sư trưởng),
Đài THVN đã bắt đầu phát thử nghiệm
truyền hình màu. Đài THVN cử một
đoàn gồm 8 kĩ sư sang thực tập về
truyền hình màu tại Đài Truyền hình
Berlin của Cộng hòa Dân chủ Đức. Sau
năm 1980, tuy thiết bị còn hết sức hạn
chế, Đài THVN đã cố gắng phát xen kẽ
các chương trình truyền hình màu (hệ
SECAM) với các chương trình đen trắng
nhằm mục đích thử nghiệm, đào tạo đội
ngũ và phục vụ một số lượng hạn chế
các máy thu hình màu hiện có của khán
giả. Tuy nhiên, Việt Nam khi đó là thành
viên củaOIRT (Organization International
of Radio and Television) - Tổ chức Phát
thanh - truyền hình của các nước xã hội
chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô nên
Truyền hình Việt Nam vẫn sử dụng tiêu
chuẩn màu SECAM, trong khi hầu hết
các máy quay gọn nhẹ, máy ghi hình,
thiết bị xử lí tín hiệu tại trung tâm lại nhập
của Nhật, hệ PAL hoặc đa hệ, ngoại trừ
một số máy ghi hình chuyên dụng của
Liên Xô cung cấp sử dụng hệ SECAM.
Nguồn tín hiệu tại Trung tâm
Kĩ thuật truyền hình tại Giảng
Võ khi đó khá phức tạp, có cả
PAL, cả SECAM. Trường
quay phát sóng sử dụng thiết
bị theo hệ PAL nên trước khi
phát sóng, tín hiệu phải cho
qua bộ chuyển đổi Transcoder
từ PAL sang SECAM. Công
nghệ truyền hình màu trên thế
giới ở thời điểm đó có 3 tiêu
chuẩn: NTSC, PAL, SECAM,
mỗi tiêu chuẩn đều có mặt mạnh, yếu
riêng nhưng nổi trội hơn cả là hệ PAL.
Năm 1990, Liên Xô tan rã, tổ chức
OIRT cũng không còn, nhiều cuộc hội
thảo, trao đổi, bàn luận dưới sự chủ trì
của Lãnh đạo Đài THVN khi đó với sự
tham gia của nhiều chuyên gia hàng
đầu trong và ngoài ngành (Đài THVN,
Hội Vô tuyến điện tử Việt Nam, Đại học
Bách khoa Hà Nội…) được tổ chức. Kết
luận cuối cùng được đưa ra là THVN sẽ
chuyển sang phát sóng chính thức theo
tiêu chuẩn truyền hình màu hệ PAL.
Chuyển đổi sang công nghệ
truyền hình số
Những năm cuối của thập kỉ 90 thế
kỉ trước, trên thế giới xuất hiện 3 tiêu
chuẩn phát sóng truyền hình số: mở đầu
là tiêu chuẩn ATSC của Mỹ (1995), tiếp
theo là DVB-T của châu Âu (1997) và
cuối cùng là DiBEG của Nhật. Phát sóng
truyền hình bằng công nghệ số có quá
nhiều ưu điểm so với công nghệ tương tự
và là một xu thế không thể không theo.
Tuy nhiên, lịch sử gần như đã lặp lại,
ngành truyền hình của tất cả các quốc
gia trên thế giới lại phải đối mặt với sự
lựa chọn một trong 3 tiêu chuẩn: ATSC,
DVB-T và DiBEG. Truyền hình Việt Nam
cũng không ngoại lệ.
Nhận thức rõ vấn đề đó, ngay từ
năm 1997, các cán bộ kĩ thuật của Đài
THVN đã tập trung nghiên cứu một cách
nghiêm túc cả 3 tiêu chuẩn để tham mưu
cho lãnh đạo lựa chọn tiêu chuẩn phù
hợp nhất. Nhiều cuộc hội thảo kĩ thuật
được tổ chức để trao đổi, tiếp cận thông
tin; hàng chục đề tài nghiên cứu khoa
học cũng được thực hiện. Trên cơ sở kết
quả nghiên cứu khoa học của các đề tài,
thông tin từ các hội nghị, hội thảo trong
nước và quốc tế, tranh thủ ý kiến tư vấn
của các chuyên gia Hiệp hội Phát thanh
và Truyền hình châu Á - Thái
Bình Dương (ABU), Hội Vô
tuyến điện tử Việt Nam...,
Hội đồng Khoa học Đài
Truyền hình Việt Nam đã
nhất trí trình lãnh đạo Đài kí
quyết định lựa chọn tiêu
chuẩn truyền hình số mặt đất
cho Việt Nam. Vào 11h30
ngày 26/3/2001, ông Hồ
Anh Dũng - Tổng Giám đốc
Đài THVN đã chính thức kí
quyết định lựa chọn tiêu chuẩn
truyền hình số mặt đất DVB-T.
Năm 2013, VTV đã phát sóng chính
thức tại một số thành phố lớn theo tiêu
chuẩn DVB-T2. Ngày 30/6/2015, Đà
Nẵng là địa phương đầu tiên trên cả
nước chấm dứt công nghệ truyền hình
tương tự, chuyển hoàn toàn sang phát
sóng số. Đến năm 2020, cả nước sẽ kết
thúc phát sóng truyền hình tương tự và
chuyển hoàn toàn sang công nghệ số.
Có thể nói, chặng đường chuyển đổi
công nghệ phát sóng truyền hình từ
tương tự sang truyền hình số khá dài
(gần 20 năm), lí do chính là do chi phí
chuyển đổi đầu thu cho người xem quá
lớn (giả thiết chi phí cho một đầu thu -
Settop box - có giá khoảng 30 USD; với
50 triệu máy thu hình, chi phí của toàn
xã hội sẽ là 1,5 tỉ USD, chưa kể kinh phí
đầu tư xây dựng hệ thống phát sóng số
và các chi phí khác).
Nhìn lại chặng đường 45 năm qua,
chúng ta có quyền tự hào về những
quyết định có tính lịch sử, có tầm chiến
lược, những định hướng công nghệ táo
bạo của lãnh đạo Đài Truyền hình Việt
Nam qua các thời kì, trong đó có những
đóng góp nhất định của đội ngũ kĩ thuật
thuộc các đơn vị của Đài Truyền hình
Việt Nam.
Ngô Thế Trị
Năm 1986, Đài THVN đưa vào sử dụng trường quay S4
Phòng tổng khống chế hiện nay
Lịch sử phát triển của truyền hình
Việt Nam cũng cho thấy, các quyết
định của Đài Truyền hình Việt Nam
trong các giai đoạn chuyển đổi
công nghệ giữa “ngã ba đường”
của các dòng chảy công nghệ đã
được khẳng định là hoàn toàn
chính xác.