65
Hiện nay, đội ngũ viết kịch bản
phim truyền hình và điện ảnh của Việt
Nam còn gặp nhiều khó khăn. Theo
chị, sự kết hợp giữa câu chuyện văn
học và kịch bản phim phải có điều kiện
cần và đủ nào để thành công hơn?
Tôi nghĩ, sự thành công của một bộ
phim không hoàn toàn phụ thuộc vào
kịch bản, dù đó là khâu đầu tiên. Đôi
khi có kịch bản tốt chưa chắc có được
bộ phim hay nếu biên kịch và đạo diễn
không tìm thấy được sự đồng nhất, hoặc
đạo diễn bị hạn chế về mặt chuyên môn.
Đề tài hiện đại, ăn khách không phải là
gu của tôi, tôi thích đi vào những đề tài
có chiều sâu, đọng lại trong lòng khán
giả. Tôi muốn lao động nghiêm túc,
được gặp những cộng sự cùng chung
mong muốn đó thì tôi mới nhận lời hợp
tác. Nhưng gặp nhau phải là cái duyên.
Có những đề tài mình yêu thích, say mê
nhưng chưa chắc khán giả đã thích, như
mảng đề tài miền núi.
Là người đắm say với mảng đề
tài miền núi, khi nhìn bức tranh phim
ảnh thiếu vắng mảng đề tài này, chị
suy nghĩ gì?
Cái khó đầu tiên là không có người
viết. Bạn thử đếm xem có bao nhiêu nhà
văn có thể viết về mảng đề tài này. Tôi
viết miền núi vì thích nó, nhưng phần
nữa là do may mắn. Nó giống như việc
người nông dân đang cày xới trên thửa
ruộng chẳng ai tranh giành. Hơn nữa,
chúng ta đều biết, sản xuất về đề tài
này khá vất vả, chi phí quá lớn. Đây lại
không phải là đề tài ăn khách. Tôi nghĩ,
để kéo quảng cáo cho phim này cũng rất
khó. Đối tượng khán giả không rộng rãi.
Khó khăn khách quan, chủ
quan như thế thì dạng phim
này hiếm thì cũng dễ hiểu.
Ở vai trò của người
cầm bút, chị vẫn tiếp tục
dòng chảy cảm xúc đó hay
sẽ chuyển sang mảng nội
dung khác?
Sợ nhất là đến một lúc nào đó nguồn
cảm xúc của mình bị cạn kiệt. Về phim
ảnh thì tôi không dám chắc, tôi cũng
không chọn cách cứ viết kịch bản rồi
“chào bán”. Tôi chọn cách làm chắc
chắn. Tuy nhiên, tôi không bao giờ từ
chối công việc, nhất là nghề biên kịch
mà tôi rất thích. Nó cũng hỗ trợ, giúp
tôi đổi mới về mặt tư duy. Từ viết văn
thuần túy sang viết kịch bản đòi hỏi phải
thay đổi nhiều trong tư duy. Nhưng như
đã nói, rất cần cái duyên, sự đồng cảm.
Ví như kịch bản phim điện ảnh
Người
yêu ơi
tôi đang hoàn thiện đều nhận
được sự yêu thích của đạo diễn, giám
đốc sản xuất của Hãng phim truyện Việt
Nam. Câu chuyện này tôi viết ở trại
sáng tác năm 2015 do Cục Điện ảnh tổ
chức. Năm đó, duy nhất
Người yêu ơi
được nghiệm thu và năm nay thì đưa
vào sản xuất.
Giữa viết văn và biên kịch, đâu
mới là nơi mang đến nguồn tài chính
tốt hơn cho người viết?
Tổng thu nhập của một kịch bản
phim truyền hình gấp 10 lần một cuốn
tiểu thuyết. Với người viết, nếu nói
không quan tâm đến nhuận bút thì chưa
hẳn, đó là cái thúc đẩy, mang lại sự
hưng phấn cho công việc. Thế nhưng,
bạn cứ hình dung, một tập kịch bản
dài khoảng 28 trang, với 32 tập thì bao
nhiêu trang, bao nhiêu nghìn chữ trong
đấy. Nếu tính lao động thì vẫn là rẻ.
Chúng tôi viết tiểu thuyết vài trăm trang
cũng chỉ được mấy chục triệu. Nhưng
chúng tôi vẫn viết, vì không thể không
viết. Nên nếu nói là để kiếm tiền thì
không hẳn đúng. Tôi cũng làm báo, rõ
ràng kiếm tiền từ công việc này tốt hơn
viết tiểu thuyết hay kịch bản phim.
Được biết, dịp này, cuốn tiểu
thuyết cùng tên với bộ phim
Lặng
yên
dưới vực sâu
của chị cũng sẽ ra
mắt. Chị có thể chia sẻ đôi chút về sự
kiện này?
Bộ phim và cuốn tiểu thuyết cùng
tên
Lặng yên dưới vực sâu
cùng lúc ra
đời trong tháng Tư vừa qua. Có những
nhân vật trong phim rất hạnh phúc
nhưng trong cuốn sách thì lại chết.
Chúng tôi (tác giả và nhà xuất bản) cố
tình chờ để tác phẩm văn học phát hành
cùng thời điểm với phim truyền hình lên
sóng. Tôi cho rằng, sẽ có một hiệu ứng
tốt, sự tương hỗ từ cách làm này. Mọi
người sẽ có sự tò mò giữa câu chuyện
trong phim với tiểu thuyết. Nếu phim
và sách đều giống nhau thì chẳng ai cần
đọc làm gì.
Trân trọng cảm ơn chị!
Thục Miên
(Thực hiện)
Cảnh trong phim
Lặng yên dưới vực sâu
Nhà văn Đỗ Bích Thúy trong
buổi họp báo ra mắt phim