41
PAY TV
trong bình minh tươi h ng, bóng cọ
tiếp nối bên đường như đoàn người
đang chạy tiếp sức, như những người
lính thủy chung canh giữ bình yên
cho người trung du. Bóng cọ nghiêng
nghiêng, san sát bên sườn đ i, sườn
dốc, soi bóng xuống dòng sông Thao
đã trở thành hình ảnh tạc vào lòng
những người con Cẩm Khê sống xa
quê hương xứ sở.
Đứa trẻ nào sinh ra và lớn lên
cùng với cọ thường hỏi các bậc
cha mẹ, ông bà rằng, cọ quê mình
có từ bao giờ, ai tr ng cọ mà nhiều
đến thế? Thường thì câu trả lời không
thỏa đáng, vì chả biết từ bao giờ,
người ta sinh ra đã thấy bóng cọ
già nua, ngật ngưỡng vươn lên trời
xanh. Thân cọ cao vút hiên ngang,
được bao bọc bởi những vè cọ lởm
chởm, lá to rộng. Cọ đội lấy trời, níu
lấy mây như tráng sĩ thời tiền sử... Ở
đâu cọ cũng sống được, từ ruộng lầy
thụt đến núi cao, đ i gò sỏi đá ong,
hay đ ng bãi ven sông, cọ không
bao giờ chê đất. Theo những bậc
cao niên thì một đời cọ có thể sống
tới một hai trăm tuổi... Những cây
cọ lâu năm, tấm thân to bằng một
người ôm. Thân cọ già mà mắt lá cọ
rất non tơ. Mỗi năm cọ chỉ cho ra
đời đúng 12 lá, ứng với 12 tháng của
năm, bất kể năm ấy tháng nhuận
hay tháng đủ. Thân cọ đẹp, khắc khổ
nhưng tất cả những thứ trên cây cọ
đều có thể phục vụ cho cuộc sống
sinh hoạt của con người. Xin được
dẫn lại phần khảo cứu về cây cọ từ
cuốn sách của Nguyễn Xuân Lân:
“Cọ là thứ cây có giá trị sử dụng lớn,
toàn bộ cây cọ không bỏ đi một thứ
gì. Lá cọ lợp nhà, chắn vách, làm
chổi, làm bầu gánh phân, gánh củ,
móm hạt giống, gầu múc nước, làm
quạt. Búp cọ khâu nón, áo tơi, vặn
thừng, vặn chão, đan làn xuất khẩu...
Thân cọ làm cột nhà, cột điện, làm
cầu khỉ, máng nước, máng lợn, chõ
đ xôi... Ngày trước, thân cọ còn
dùng làm câu đối mộc thiếp vàng
rất đẹp, chỉ những nhà giàu mới
mua sắm nổi. Cuống cọ làm rui mè,
lạt buộc, rào dậu hoặc thay tre đan
rọ lợn, l ng gà, làm dành gánh đất.
Mành cọ, một mặt hàng xuất khẩu
được ưa chuộng. Cuối cùng,
những thứ gì còn lại của cây
cọ được đưa vào bếp làm
củi đun, chẳng phí hoài một
thứ gì cả... (Địa chí tỉnh Vĩnh
Phú, năm 1975).
Cứ vào khoảng tháng
7, những cây cọ trong rừng
bắt đầu ra hoa, kết trái. Đến
cuối tháng 10, đầu tháng 11,
quả cọ bắt đầu chín, màu
vỏ xanh đậm hơi nâu. Quả
cọ ngon là quả được lấy từ
những cây chưa bao giờ bị
chặt lá, vì cọ bị chặt lá một
lần thì quả cọ sẽ còi cọc, hạt
to, ăn rất chát, mất hết mùi vị
đặc trưng của nó. Mỗi mùa
quả cọ chín, lũ trẻ chúng tôi lại bắc
thang leo trèo, hái bằng được những
quả cọ căng tròn, mang về cho
vào n i om, ăn no bụng thay cơm.
Quả cọ chín, lõi vàng ươm, ăn bùi
và rất ngậy. Người dân quê tôi chọn
những quả cọ cùi dày, cạo sạch vỏ
đem làm dưa. Dưa cọ có vị mặn của
muối, vị ngậy béo bùi của cọ. Món
ăn về cọ đã làm nên nét ẩm thực
dân dã và đặc trưng của vùng đất
trung du. Nếu như xôi cọ là món ẩm
thực ngạt ngào hương đ i, hương
rừng thì món tằm cọ lại hấp dẫn
người thưởng thức bởi chất men say
đậm đà trong sự giao hoà tinh tế của
đất, của rừng.
Giờ đây, mỗi khi thấy thấp thoáng
bóng cọ ở đâu đó thì nỗi nhớ quê
hương trong tôi càng thêm da
diết. Hình ảnh bà ngoại với chiếc
quạt được làm từ lá cọ cứ chầm
chậm đưa theo vòng tay quạt mát,
xua muỗi cho tôi vào mỗi đêm hè oi
bức. Càng nhớ hơn khi mỗi sáng tinh
mơ, khi còn say giấc n ng, tai đã
nghe văng vẳng tiếng chổi cọ quét
sân của bà... Quê hương, tuổi thơ,
chưa bao giờ nguôi ngoai, quên sao
được những buổi đến trường, lũ bạn
bè rủ nhau đi nhặt quả cọ rụng, bất
kể trời mưa hay nắng, luôn có tấm lá
cọ tròn xoe che trên đầu... Thật đúng
như câu hát:
Cọ xoè ô che nắng;
Râm mát đường em đi
.
Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ, được
coi là nơi nhiều cọ nhất Việt Nam.
Rừng cọ Cẩm Khê trước đây có
khoảng 7.000 mẫu, riêng xã Phú
Khê có tới 800 mẫu. Những rừng cọ
nguyên sinh ấy đã đánh dấu một thời
huyền diệu của cây cọ nói chung.
Ngày nay, diện tích đất dành cho cọ
đã thu hẹp, dù không còn nhiều cọ
nhưng du khách đến với Cẩm Khê
vẫn rất ấn tượng vớ
i những dáng cọ
nghiêng nghiêng bên bờ sông Thao…
Bài và ảnh:
Ngọc Mai