90
VTV
sống
khỏe
T
heo PGS. TS Vũ Bá Quyết -
Giám đốc Bệnh viện Phụ sản
Trung ương, thiếu máu ở phụ nữ
mang thai có thể gây ra nhiều hậu quả
nặng nề cho cả mẹ và con. Mẹ bị thiếu
máu dễ bị sảy thai, nhau bong non, tăng
tỉ lệ mắc bệnh và tử vong, chất lượng
sinh nở và cho con bú thấp. Trẻ sinh ra
bởi những người mẹ thiếu máu cũng dễ
bị thiếu máu, nhẹ cân, sinh non tháng,
suy thai, tăng khả năng bị các bệnh sơ
sinh hơn so với bình thường...
Thiếu máu do thiếu sắt ở trẻ sơ sinh
có thể gây ảnh hưởng lâu dài tới sự phát
triển trí não và hậu quả là có thể làm suy
giảm khả năng học tập của trẻ do khiếm
khuyết trong hình thành myelin do thiếu
sắt. Con của những bà mẹ thiếu máu
giai đoạn sớm thai kì có nguy cơ bệnh
tim mạch cao hơn trẻ khác khi đến tuổi
trưởng thành. Đáng lưu ý, 75% trường
hợp thiếu máu ở phụ nữ mang thai là do
thiếu sắt, và biện pháp đơn giản nhất để
dự phòng và điều trị là bổ sung sắt đầy
đủ khi mang thai.
Tuy nhiên, việc uống viên sắt bổ
sung ở phụ nữ có thai không hề đơn
giản. Một số phụ nữ mang thai đã phải
tự ý ngừng uống viên sắt bởi các tác
dụng phụ như táo bón, buồn nôn, tiêu
chảy... Hơn nữa, thai phụ cần uống bổ
sung sắt trong thời gian rất dài, do đó
cần lựa chọn sản phẩm không gây lắng
đọng sắt ở tổ chức khi hấp thụ thừa. Chị
em nên lựa chọn những thuốc sắt III
dạng phức hợp, hấp thu chủ động chọn
lọc theo nhu cầu cơ thể, hạn chế được
các tác dụng phụ của sắt, tiêu biểu như
Maltofer (Hydroxide Polymaltose) hay
sắt succinyl protein.
Cũng trong hội thảo, TS. Peter
Geisser - nhà phát minh Thụy Sĩ, người
sáng chế ra các loại sắt III như Venofer
(Iron sucrose) hay Maltofer (Hydroxide
Polymaltose), đồng thời là Chủ tịch Hội
đồng Khoa học Câu lạc bộ Sắt châu Âu
2008 cho biết: Tùy theo cấu trúc hóa
học, các chế phẩm sắt đường uống có
tác động khác nhau tới cơ thể. Muối sắt
II hoạt tính mạnh, tan tốt nên có sinh
khả dụng, nhưng vì hoạt tính quá mạnh
sẽ xảy ra hấp thu mạnh vào trong máu,
gây bão hòa transferin và sinh ra nhiều
sắt không được gắn transferin, dẫn đến
gắn kết bất thường với albumin trong
máu, gây lắng đọng sắt ở tim, gan và
hệ nội tiết, tổn thương niêm mạc ruột…
Sắt III bình thường thì không độc nhưng
không tan nên không có sinh khả dụng.
TS Peter Geisser đã nghiên cứu và phát
minh ra phức hợp sắt III được bao bọc
bởi màng polymaltose, có khả năng tan
trong các môi trường PH khác nhau, chỉ
hấp thu chủ động vào cơ thể không gây
bão hòa transferin, không gây lắng đọng
sắt tại các cơ quan khi dùng lâu dài,
không gây tác dụng phụ và tổn thương
đường tiêu hóa.
Maltofer là phức hợp sắt có trọng
lượng phân tử nhỏ và ổn định, nên tính
hòa tan ở các PH khác nhau (từ dạ dày
đến ruột) trong khi một số Polymaltose
có trọng lượng phân tử lớn hơn nhiều
nên khó hòa tan, vì vậy tác dụng điều
trị không giống như Maltofer. Hơn
nữa, sự tương tác với các thành phần
trong thực phẩm và các loại thuốc cũng
không giống nhau về muối sắt, điều đó
giải thích tại sao Maltofer có thể và nên
uống khi ăn hoặc sau khi ăn, trong khi
các muối sắt khác thì không được.
Các nghiên cứu lâm sàng đã chứng
minh, khi dùng Maltofer, lượng
Hemoglobin tăng lên sau 3 tháng điều
trị tương đương với các loại muối sắt
khác. Nhưng điều đặc biệt là Maltofer
an toàn và có ít tác dụng phụ hơn nhiều
so với các sắt khác.
PV
Dự phòng thiếu máu
do thiếu sắt
Ngày 3/11 vừa qua, hội thảo khoa học chuyên đề “Cập nhật dự phòng
và điều trị thiếu sắt và thiếu máu do thiếu sắt” do Bệnh viện Phụ
sản Trung ương phối hợp cùng Ever Neuro đã được tổ chức tại Hà
Nội. Hội thảo có sự tham dự của nhiều chuyên gia, giáo sư, bác sĩ uy
tín công tác tại các bệnh viện lớn tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc.