Previous Page  46 / 120 Next Page
Information
Show Menu
Previous Page 46 / 120 Next Page
Page Background

46

Ekip thực hiện lội suối cùng các thầy

để ghi hình bắt cá cải thiện bữa ăn

T

iểu học Tri Lễ có lẽ là ngôi trường độc đáo

và có nhiều cái “không” nhất mà tôi từng

biết: không điện, không sóng điện thoại,

không nước sạch, không trạm y tế, không

chợ, không phòng học kiên cố, không nhà công vụ

kiên cố cho giáo viên, không công trình phụ cho cả

giáo viên và học sinh… Và đặc biệt, ở ngôi trường

này, 44 giáo viên ở tất cả 6 điểm trường, nằm rải

rác trên dãy Phà Cà Tún, đều là nam giới.

Bên cạnh nhiều cái “không” kể trên, có lẽ lí do

khiến cho không một giáo viên nữ nào dám về Tri Lễ

kể từ ngày thành lập trường năm 1982 đến nay là

bởi con đường đến trường vô cùng khó khăn, nguy

hiểm. Từ thị tứ Châu Thôn vào điểm trường chính ở

Mường Lống dài gần 30km nhưng chỉ có 1/3 là

đường nhựa, còn lại là đường núi khó đi và hiểm trở.

Đường không ra đường, mà chỉ là những lối mòn

cheo leo vắt qua sườn núi, mất cả tiếng đồng hồ

chạy xe máy, còn những ngày mưa thì chỉ có thể đi

bộ nửa ngày mới vào được đến trường.

Dốc Đỏ mới thực sự là nỗi kinh hoàng của những

ai muốn vào Tri Lễ. Con dốc chỉ dài hơn nửa cây số,

những ngày nắng, bụi tung mù mịt với những đường

sống trâu sâu hoắm. Trời chớm mưa, cả con dốc

biến thành đống bùn nhão nhoét, bánh xe dính chặt

bùn lầy, muốn vượt qua thường phải đi thành từng

nhóm ít nhất bốn người, để có thể hỗ trợ khênh từng

xe vượt dốc. Khi nghe tin đoàn làm phim vào ghi

hình, các thầy giáo phải đích thân ra thị tứ Châu

Thôn để đón và chở vào tận nơi, bởi vì không một

người lái xe ôm nào đủ can đảm nhận lời, dẫu

chúng tôi đã trả giá tới 500.000 đồng mỗi người cho

đoạn đường núi gần 20km.

Tri Lễ có 6 điểm trường nằm rải rác khắp dãy Phà

Cà Tún cao ngút trong mây. Từ điểm trường chính

đến các điểm lẻ, điểm xa nhất cách gần 30km, điểm

gần nhất cũng cả chục km đường núi chênh vênh,

hiểm trở. Dường như ở đây chỉ có bước chân của

những người Mông và dấu bánh xe của các thầy

giáo cắm bản. Mà có lẽ, dấu xe đi về hàng tuần,

hàng tháng của các thầy đến lớp còn nhiều hơn

bước chân của những người Mông chuyên leo núi.

Sau hơn tiếng đồng hồ thấp thỏm, đặt hết niềm

tin vào tay lái các thầy giáo vốn quen đường, thuộc

lối, nhóm làm phim và đại diện Công đoàn ngành

giáo dục đặt chân xuống điểm trường chính ở

Mường Lống mới dám thở phào nhẹ nhõm, nhưng

lại... không khỏi lo sợ nghĩ tới lúc quay trở ra.

Có lẽ điều lo lắng nhất của nhóm làm phim

chúng tôi trong chuyến ghi hình này là không có điện

để sạc pin cho máy quay phim. Hệ thống điện bằng

năng lượng mặt trời mà huyện Quế Phong và Phòng

giáo dục vừa hỗ trợ hồi đầu năm cho điểm trường

chính ở Mường Lống không đủ điện áp để nạp điện.

Cái khó ló cái khôn. Tôi liền nhờ thầy Nguyễn Trọng

Quyền, Phó Hiệu trưởng, cử người đi xe máy quay

ngược ra Châu Thôn thuê một bộ nắn dòng và kích

điện. Sau đó, tôi loay hoay kết nối hai bình acquy

12V vào với nhau, rồi nối với bộ kích điện để chuyển

từ 24V sang điện thế 220V. Vậy là có nguồn điện

vừa đủ điện áp, vừa ổn định để sạc ắc quy cho máy

quay trong những ngày “bốn cùng” với các thầy

giáo ở Tri Lễ: cùng ăn, cùng ngủ, cùng trải nghiệm

các hoạt động dạy học và cùng sinh hoạt.

Về ăn, chúng tôi ăn cùng với các thầy. Có gì ăn

nấy. Nhưng phải nói thật, tôi sợ nhất món canh

măng rừng nấu với chiến lợi phẩm cả chiều lội suối

đánh bắt, gồm dăm con tép, vài con cá suối các loại,

lẫn với chục con cào cào, châu chấu… Món ăn ấy

vừa tanh, vừa nồng, vừa khó nuốt. Ấy vậy mà các

thầy vẫn ăn rất ngon miệng, vừa chuyện trò vui vẻ,

bởi món “canh thập cẩm” này là “đặc sản có tính

truyền thống và bền vững” ở nơi đây.

Về ngủ, lúc đầu trường dự kiến nhường một

phòng tốt nhất trong “khu nhà công vụ” được làm

bằng gỗ nhưng đã xuống cấp nghiêm trọng cho

chúng tôi, còn các thầy sẽ ngủ chung và di tản vào

ở lẫn trong dân. Nhưng trước khi đi, tôi đã dự kiến

khả năng này, nên chủ động mang theo lều cắm

trại. Quay phim Nông Quốc Phong còn mang theo

cả đèn Led chạy bằng pin tiểu. Nhờ vậy, chúng tôi

không chỉ tự lo được chỗ ngủ cho mình vừa ấm

cúng, vừa tránh được đàn muỗi rừng cứ chập tối

lại bay ra hàng đàn mà còn có cả ánh sáng để đọc

tài liệu.

Trong 5 ngày 4 đêm ghi hình ở Tri Lễ, chúng tôi

không chỉ cảm phục mà còn thực sự kính trọng trước

cái tâm trong sáng, lòng yêu nghề, quý trẻ, hết lòng

vì sự nghiệp "cõng chữ lên non" của các thầy giáo

nơi đây. Trường không có giáo viên nữ, nên các thầy

vừa là người dạy kiến thức, vừa đảm trách luôn cả

vai trò “cô giáo như mẹ hiền”. Từ việc cắt móng tay

định kì, chải đầu, buộc tóc, đến việc hướng dẫn các

em tự chăm sóc bản thân, giữ gìn vệ sinh thân thể.

Lúc đầu còn ngượng nghịu, đôi khi còn ngại ngùng,

xấu hổ, nhưng làm mãi thành quen, giờ đây, những

công việc ấy đã trở thành một hoạt động hàng ngày

rất bình thường của các thầy giáo ở vùng cao Tri Lễ.

Ở Tri Lễ không có sóng điện thoại, mỗi khi cần

liên lạc, các thầy phải đi xe máy hàng nửa tiếng

đồng hồ đến một điểm dừng ở lưng chừng núi. Tại

đây, trong khoảng nửa mét vuông thỉnh thoảng mới

nhận được sóng rất yếu của mạng Vinaphone. Vì

thế, các thầy thường tập trung để hai, ba máy trên

một cành cây làm giá đỡ kiểu như cộng hưởng để

“gọi sóng về”. Khi có sóng thì nói vội, nói vàng được

vài câu và phải đứng im một chỗ, vì chỉ cần nhích

người đi một chút là lại mất sóng.

Qua quá trình tiếp xúc và tìm hiểu, tôi được biết

thầy giáo Nguyễn Trọng Quyền, Phó Hiệu trưởng -

Chủ tịch Công đoàn trường, là người có nhiều nhất

những chuyến đi về giữa các điểm trường. Đi để nắm

tình hình, kịp thời động viên, uốn nắn và giải quyết

những khúc mắc về chuyên môn nghiệp vụ, cũng

như tâm tư tình cảm của giáo viên cắm bản. Vì thế, ở

Tri Lễ này, tay lái của thầy được đánh giá là “cứng”

và “lụa” nhất. Ấy vậy mà trong hành trình đèo tôi

đến điểm trường Nậm Tột, nơi cao nhất, xa nhất,

khó khăn nhất của Tri Lễ, nằm tít trên đỉnh Phà Cà

Tún, suýt chút nữa chúng tôi bị rơi xuống vách núi.

May mà tôi kịp nhảy xuống túm giữ được đuôi xe.

Có một điều đáng mừng là trước khi đi ghi hình

phóng sự, qua trang Facebook cá nhân của tôi, biết

được những khó khăn, vất vả và thiếu thốn ở ở

trường Tiểu học Tri Lễ 4, nhiều bạn bè đã ngỏ ý

muốn giúp đỡ. Và chuyến đi “Mùa đông không

lạnh” của đoàn thiện nguyện với nhóm làm phim ấy

đã mang 430 chiếc chăn ấm, 15 áo rét, 1 tủ sách kĩ

năng sống cùng nhiều bánh kẹo đến tận tay cả thầy

và trò của nhà trường.

Hơn 20 năm làm truyền hình về giáo dục, tiếpxúc với hàng ngàn giáo

viên, đã đến hàng trăm ngôi trường, nhưng chuyến đi làm phóng sự

cho chương trình

Thay lời Tri ân 2016

ở vùng cao Tri Lễ, huyện Quế

Phong, tỉnh Nghệ An đã đem đến cho phóng viên Văn Ba nhiều dấu ấn

thật khó phai. Câu chuyện mà anh chia sẻ không chỉ phản ánh hành

trình "cõng chữ lên non" đầy gian nan của các giáo viên vùng cao,

mà còn giúpkhán giả hiểu hơn công việc làmtruyền hình đầyvấtvả

của các phóng viên VTV.

Chuyện "4 cùng"

ở vùng cao Tri Lễ

YẾN TRANG

(Ghi)

Có một điều chắc chắn, dù còn nhiều khó

khăn, thiếu thốn, hiểm nguy rình rập, giữa chốn

rừng thiêng nước độc, 44 thầy giáo ở Tri Lễ vẫn

ngày tiếp ngày, đêm nối đêm âm thầm gieo

chữ nơi biên viễn của Tổ quốc. Trong số họ, có

thầy hơn 40 tuổi vẫn chưa lập gia đình, không ít

người đã gần 25 năm bám trụ cùng các em

học sinh người Mông trên đỉnh núi cao chót vót,

hi sinh cả tuổi thanh xuân, tình nguyện cắm

chốt nơi sơn cùng thủy tận chỉ vì lòng yêu nghề,

quý trẻ, hết lòng vì sự nghiệp

Cõng chữ lên non.

Quay phim Nông Quốc Phong lội bùn tác nghiệp ở dốc Đỏ

PV Văn Ba bên bộ ắc quy đã được đấu nối hoàn chỉnh

để có đủ điện sạc cho máy quay trong mấy ngày ở trường

PV VTV ăn mì tôm cùng với các thầy giáo ở Tri Lễ

Xuân Đinh Dậu 2017