Previous Page  19 / 64 Next Page
Information
Show Menu
Previous Page 19 / 64 Next Page
Page Background

19

PAY TV

ngọn lửa tình yêu với Hát văn. Một

điều đặc biệt nữa, thời chiến tranh,

ở ngay cạnh nhà tôi có một nghệ

nhân hát văn và đánh đàn (gọi là

Cung văn) rất giỏi ở Hà Nội sơ tán

về. Thế là những khi rảnh rỗi, tôi

thường sang chơi, thấy đàn treo trên

vách thì hay nghịch, nghe hát... Sau

này, có dịp chia sẻ với mọi người về

đam mê của mình, tôi luôn nói rằng.

đó là người thầy đầu tiên dạy tôi hát

chầu văn.

Và rồi, con đường nghệ thuật

của ông phát triển như thế nào?

Từ sự chỉ bảo của người thầy đầu

tiên là nghệ sĩ gần nhà, cộng thêm

sự tìm tòi và tự học của mình, năm

15 tuổi tôi thi đỗ vào Đoàn ca múa

nhạc Hà Nam Ninh, gắn bó với nghệ

thuật truyền thống như: chèo, xẩm

và hát văn… Ba năm sau, tôi thi đỗ

vào Học viện Âm nhạc Quốc gia

(trước là Nhạc viện Hà Nội).

10 năm tôi gắn bó với ngôi trường

ấy, từ trung cấp đến cao đẳng rồi

đại học. Ra trường, tôi về công tác

tại Viện nghiên cứu văn hóa dân

gian Việt Nam. Ở đây, tôi thực sự có

điều kiện và thời gian để hiểu sâu

hơn về niềm đam mê của mình, vừa

sưu tầm, nghiên cứu vừa trực tiếp

biểu diễn.

Vậy giá trị của nghệ thuật

hát văn là gì, thưa ông?

Nghệ thuật hát văn thường gắn

với những giá đồng (hát văn là âm

nhạc được sử dụng trong quá trình

thực hành nghi thức hầu đồng - nghi

thức quan trọng trong tín ngưỡng

thờ Mẫu). Nó ca ngợi cái đẹp của

Chân - Thiện - Mĩ, tạo cho con người

ta đức tin trong cuộc sống, trong

tương lai bằng sự thể hiện độc đáo

qua ca từ và giai điệu âm nhạc rất

riêng của mình. Trước kia, chỉ có

những gia đình nhà quan, các tiểu

thương làm ăn buôn bán giàu có

mới có tiền tổ chức được những

giá đồng, mới được xem hầu đồng,

chính vì vậy mà đã có rất nhiều lời

đồn thổi về sự thần bí trong hầu

đồng, khiến cho nghi lễ tín ngưỡng

này bị nhuốm màu mê tín dị đoan.

Hai ba mươi năm nay thì chầu văn

đã được công nhận và phổ biến

rộng rãi.

Được biết, trong quá trình

đưa chầu văn về đúng với giá trị

NSƯT Văn TY đang biểu diễn chầu văn

của nó, ông đã có những đóng góp

âm thầm trong việc bảo tồn và

cách tân loại hình nghệ thuật này?

Cuối những năm tám mươi của

thế kỉ trước, khi là thành viên của

Câu lạc bộ nghệ thuật tại Hội Nhạc

sĩ Việt Nam, tôi và nhạc sĩ Thao

Giang là những người mạnh dạn

tung giá đồng, hát xẩm lên sân

khấu nghệ thuật dân tộc ở Hà Nội.

Tiếp sau đó, Đoàn chèo Trung ương,

Đoàn chèo Quân đội... cũng nhờ tôi

dàn dựng các vở diễn cho nhà hát

của họ khi có vở liên quan hết hát

văn. Tôi cũng cố gắng đưa hát văn

vào trong chèo, trong múa rối nước,

và từng bước đưa nghệ thuật hát

văn đến gần hơn với công chúng,

được khán giả yêu thích, cổ vũ nhiệt

tình. Ngoài việc biểu diễn, tôi cũng

chú trọng đến việc sưu tầm. Hiện

nay, tôi cũng đã có 50 - 60 làn điệu

hát văn, trong đó có gần 20 làn điệu

cổ. Ngoài ra, tôi vẫn dành thời gian

để làm công tác đào tạo đối với

hát văn, nhiều nghệ sĩ trẻ cũng đã

trưởng thành và bước đầu được ghi

nhận. Vừa qua, tôi dạy hát văn và

hướng dẫn cho anh Barley Norton,

một nghiên cứu sinh người Anh hoàn

thành luận án Tiến sĩ về chầu văn.

Hiện nay, tôi đang tiếp tục dạy đàn

Nguyệt và hát văn cho một chàng

trai người Pháp. Những điều đó cho

tôi niềm vui.

Hiện nay, hát văn đang có

xu hướng phát triển và được đón

nhận nhưng cũng vì thế mà dẫn

đến hiện tượng nhiều người hát

chầu văn nhưng chưa thực sự

đúng, hoặc biến tướng một cách

sai lệch. Ông nghĩ như thế nào về

điều này và giải pháp nào để

giảm đi điều đó?

Đúng là hiện nay nhiều người đi

học hát chầu văn theo trào lưu vì lợi

nhuận mà không hề biết lề, lối cổ

xưa cha ông truyền lại. Tôi cho cho

rằng, nhiều cung văn trẻ phần nhiều

không biết “ngũ cung”, không biết

“úp”, “chênh” (những làn điệu hát

văn cổ) mà chỉ thuộc lối “xá” đơn

giản đã đi hành nghề ở các điện,

phủ cốt sao được việc của mình

trong buổi hầu đồng. Hơn nữa, trước

kia các cụ chỉ hát văn trong thời

gian ngắn, khoảng 2 - 3 tiếng nhưng

nay có canh hát lên tới nửa ngày

cũng làm giảm đi ý nghĩa của loại

hình nghệ thuật này. Thời chúng tôi,

đẳng cấp của mỗi cung văn được

thể hiện qua những cuộc thi hát

giữa các đền, phủ với nhau, nhưng

nay rất hiếm các cuộc thi như thế

được tổ chức. Cùng với đó là các

cung hầu đưa rất nhiều âm thanh lạ

vào chầu văn như sáo, bầu… không

đúng với quy cách hát văn cổ. Để

đưa hát văn về giá trị của nó, ngoài

sự tự thân của nghệ sĩ, người đào

tạo cho họ thì tôi nghĩ, các cơ quan

chức năng cũng cần có sự giám sát,

thẩm định các buổi biểu diễn loại

hình nghệ thuật này, tránh chầu văn

bị lợi dụng, biến tướng.

Xin cảm ơn ông!

Hương Lâm

(Thực hiện)